Quảng Nam hay cãi(Tiếp)
Ngay cả chuyện trai gái tình tứ, họ cũng… cãi cho bằng được. Ngày trước, các nho sinh thường ra Huế thi cử. Có người đùa:
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy o gái Huế chân đi không đành
Đùa, nhưng ngụ ý là khen đấy thôi. Khen cho cái tính đa tình của cậu học trò chân đất, hiền lành như khoai như sắn và tất nhiên trong câu đùa đó cũng thấp thoáng cái ý khoe rằng gái Huế là đẹp. Thử hỏi, thấy gái đẹp thì ai không mê, không ngắm nhìn cho thỏa thuê con mắt? Có thể ngắm nhìn rồi quên đi trong thoáng chốc, nhưng cũng có thể tơ tưởng đến ngày sau. Chuyện cũng bình thường thôi. Thế nhưng, họ cũng cãi lại cho bằng được:
Học trò xứ Quảng ra thi
Mấy cô xứ Huế chân đi không đành
Chỉ thay đổi một chữ, nhưng ngữ nghĩa đã khác hẳn. Dường như cái máu “hay cãi” đã thường trực luân chuyển trong tâm thức của người Quảng. Người ta thường kháo với nhau cách trả lời “xóc hông” của con dân Ngũ Hành Sơn. Đại loại có người từ xa đến một vùng nọ, do mù mờ đường đi nước bước nên mới lễ phép hỏi:
- Thưa bác, có phải đường này dẫn lên Đèo Le không?
Thay vì gật hoặc lắc đầu và tận tình chỉ giúp người ta, thì câu trả lời “chướng” không chịu nổi:
- Chú mi nói chi lạ rứa? Đường này không đi đến Đèo Le thì đến đâu?
Chà! Thoạt nghe cách trả lời đó là đã thấy… “choáng”! Người hỏi "cứng họng”, ngắc ngứ không thể nói gì thêm được nữa dù có “tức cành hông”. Nói vậy thôi, chứ sau câu nói “ba gai” ấy, nếu thấy trời đã tối, đường lên đó khó khăn vì không có quán trọ tạm nghỉ qua đêm thì người chỉ đường sẵn sàng mời khách về nhà mình nghỉ để mai đi sớm! Đây là sự quảng đại, rộng rãi của người Quảng, họ tỏ ra quan tâm đến người khác cho dù mới gặp lần đầu. Nhà thơ, nhà báo Trương Điện Thắng có kể mẩu chuyện khá buồn cười:
- Một lần tôi đi công tác xuống nông thôn, đi tìm hợp tác xã Bình Tú. Hồi bao cấp, ít có cơ quan nào treo bảng hiệu. Thấy dãy nhà ngói năm gian, trước là sân gạch lớn, bên phải có cái hội trường to đùng, tôi bán tin bán nghi hỏi một cậu học trò đạp xe ngang qua:
- Có phải đây là hợp tác xã Bình Tú không em?
Cậu học trò cứ đạp xe đi thẳng, ném lại một câu chua lè:
- Bộ đui na sao không thấy?
Anh Thắng là người Quảng, mà cũng ngạc nhiên với cách trả lời “ba trợn” của cậu em đồng hương. Thì người nơi khác đến làm sao có thể hiểu? Nghe xong, tôi tự tìm cách lý giải vì sao có cách trả lời ấy? Phải liên hệ với vài mẩu chuyện khác thì may ra... mới có cách lý giải! Có chuyện buồn cười rằng, chàng trai nọ đang tán tỉnh cô gái, ngày nọ chàng đến thăm nhà. Không may, gặp cha của cô ta, vốn không thích chàng. Chà! Khó ăn khó nói quá. Sau khi gãi đầu ấp a ấp úng chàng đánh bạo:
- Thưa bác, X có ở nhà không?
- Nó không có nhà thì nó vô gia cư à?
Ma tha quỷ bắt cho cái lưỡi! Lại có chuyện, sáng sớm bước ra đường thấy bà cụ đang cắp nón đi chợ, ta lễ phép hỏi:
- Chào cụ, cụ đi chợ sớm rứa hè?
Không ngờ, bà cụ đáp ngon ơ:
- Chớ chẳng lẽ tao đi chơi?
Thật hết biết!
Rõ ràng, trước những câu hỏi mà họ cho là “lãng xẹt”, không đáng để hỏi, mà vẫn hỏi thì họ sẵn sàng bộc lộ ngay thái độ của mình. Thái độ ấy ít nhiều cho thấy người Quảng trực tính, “thẳng ruột ngựa”. Theo tôi, một trong những tính cách người Quảng là nóng tính. Nóng tính nên mới hay cãi. Cãi cho bằng được nếu thấy không hài lòng về sự việc đang diễn ra sờ sờ trước mắt. Một tính cách hình thành bao giờ cũng có “hai mặt của vấn đề”, nghĩa là vừa có lợi lẫn có hại cho người đó.
Mà cũng lạ, với tính cách người Quảng dù được khen, được ca ngợi nhưng nếu xét thấy không hợp tình hợp lý thì họ cũng… cãi!
Nhìn lại sự kiện “Ngũ phụng tề phi”, dù ca ngợi tinh thần hiếu học làm rạng danh đất Quảng Nam - nhưng Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng vẫn lấy làm tiếc khi họ không để lại cho hậu thế một sự nghiệp chính trị, văn hóa, học thuật nào đáng kể. Cái sự “lấy làm tiếc” trong trường hợp này thiết tưởng chỉ có ở người Quảng Nam. Dù sự kiện trên làm rạng danh đất học xứ Quảng, làm sáng giá mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên nhưng họ vẫn chưa thật sự ưng ý. Họ vẫn đòi hỏi cao hơn nữa, chứ không chỉ dừng lại ở đó. Phải có một bản lĩnh phi thường, họ mới dám đem cái danh xưng đáng tự hào kia ra thẩm định và bình luận. Nói rộng ra, tính cách của người Quảng Nam là muốn đi vào thực chất của sự việc, dù được khen nhưng nếu cảm thấy chưa thật sự xứng đáng với lời khen đó, thì họ cũng từ chối, cũng cãi cho bằng được. Chao ôi! Người Quảng thật bụng thật lòng (và thật thà) đến thế là cùng.
Mà đâu chỉ có chuyện này. Lâu nay, con dân xứ Quảng vẫn thường tự hào về tài cầm binh thao lược của Ông Ích Khiêm (1832- 1884) - người làng Phong Lệ, huyện Hòa Vang (TP. Đà Nẵng). Nhiều nhà viết sử cho rằng, chính ông là người đã cha đẻ kế hoạch dùng trái mù u đánh Pháp! Điều này không sai, trong lời ăn tiếng nói của người Quảng còn nhớ:
Đà Nẵng, Sơn Trà, Miếu Bông, Cẩm Lệ
Chuyện trăm năm còn kể trận mù u
…
Hội ni ngó bộ không xong
Rủ nhau đánh trận mù u giữ làng
Có lẽ chính vì thế, nhà nghiên cứu Lâm Quang Thự khẳng định “chắc nịch”: “Quân Pháp thường hành quân trên các nẻo đường làng. Biết quân Pháp thường mang giày dưới đế đóng đinh, Ông Ích Khiêm bèn ra lệnh cho dân chúng nhặt thật nhiều quả mù u, rồi cho quân mang theo những giỏ thật đầy mù u phục kích các ngã đường mà giặc hay đi qua. Khi quân Pháp kéo qua, quân ta đổ ra đánh, vừa đánh vừa chạy và rải quả mù u đầy đường. Quân Pháp đang đà đuổi theo quân ta thì giẫm phải quả mù u, trượt chân ngã lăn, quân ta xông vào diệt. Trong trận này, địch chết rất nhiều, máu nhuộm đầy đường”. Thoạt đọc qua, ta thấy cũng có lý lắm chứ. Tôi chưa thấy nhà sử học nào phản bác lại. Nhưng kỳ lạ thay, chính… người Quảng Nam không thuận tình, bèn… cãi!
Người trước nhất có lẽ là nhà văn hóa Nguyễn Văn Xuân, ông cương quyết bác bỏ lập luận về việc sử dụng mù u trong chiến thuật của Ông Ích Khiêm; kế đến nhà nghiên cứu Lưu Anh Rô cũng cãi, nhưng có phần dè dặt hơn: “Theo suy luận lôgic của ngành Folklore học thì điều gì không có, chắc chắn sẽ không được nhân dân nhắc đến và lưu truyền. Dù sao, có lẽ trận mù u chắc không gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại, nếu có thì họ đã ghi vào nhật ký “Chinh phục phương Đông” của mình rồi”.
Thật ra, sử dụng trái mù u trong tác chiến không phải “đặc quyền” của riêng người Quảng. Đến nay, đồng bào Nam bộ còn nhắc đến ông Lãnh binh Thăng (Nguyễn Ngọc Thăng). Khoảng thời gian từ 1859 đến năm 1861 khi ông nhận trọng trách trấn thủ đồn Cây Mai ở đất Gia Định cũng nghĩ ra cách cho dân quân rải trái mù u dầy đặc trên mặt đường. Lúc xung trận, giặc Pháp do mang giày nên đã bị trượt té nháo nhào vì... chạy đạp trái mù u!
Với Ông Ích Khiêm, tôi luôn nghĩ là là một nhân vật “rặt Quảng”, là bậc tướng lĩnh xông pha trận mạc, từng lập nên nhiều chiến công hiển hách. Có giai thoại rằng, thuở ông còn là còn cậu học trò, tóc để chỏm, nhưng tính cách đã ương ngạnh. Hôm ấy, trưa nắng gắt. Con đường làng Phong Lệ xưa nay vốn yên tĩnh giấu mình dưới bóng tre, nay bỗng rợp cờ xí... Tiếng la hét inh ỏi của bọn lính lệ đang dọn đường cho quan Tổng đốc về làng. Thiên hạ nhốn nháo trước cảnh tượng ấy. Ai nấy đều khép nép đứng dậy khi đoàn của quan nghênh ngang đi qua. Quan chễm chệ trên võng đòn cong phủ điều, đầu che bốn lọng xanh. Lúc ấy, trong quán nước dưới bóng đa rợp mát cậu thiếu niên họ Ông vẫn cứ ngồi bình thản, xem như không có chuyện gì phải chú ý cả. Đã thế hai chân của chàng lại còn xỏ vào trong một chiếc giày rách! Khi nhìn thấy hình ảnh ngạo mạn vô lễ ấy, quan ngứa mắt, sai lính bắt hỏi. Chàng thưa là học trò, nghe vậy quan cũng nguôi giận. Nhưng nghiêm mặt bảo:
- Ừ, học trò thì thử đối lại câu đối của quan, nếu không thì bị đánh đòn.
Vừa dứt lời, quan đọc luôn:
- Cắc cớ thay, hai chân xỏ một giày;
Không một phút lúng túng, chàng ưỡn ngực đối lại:
- Sung sướng mấy, trên đầu che bốn lọng.
Hay nhất là ở chỗ “Sung sướng mấy” cứ nghe như có lời châm chọc. Nhưng nghe vậy, quan vẫn phì cười, hào phóng thưởng cho mấy lạng bạc và khuyên nên cố gắng đèn sách. Và chàng học giỏi thật. Chỉ mới mười lăm xuân xanh đã thi đậu Cử nhân, khiến vua Thiệu Trị phải khen “Thiếu niên đăng cao khoa”.
Trên bước đường “báo đền ơn vua”, Ông Ích Khiêm nổi tiếng mưu lược, nhưng lại quá cương trực, nóng nẩy. Năm 1847, sau khi đậu Cử nhân, ông được bổ làm tri huyện Kim Thành (Hải Dương). Năm 1865, ông được cử làm Tiễu phủ sứ, có công đánh dẹp bọn cướp biển, bọn phỉ đang chọc trời khuấy nước ở biên giới phía Bắc - nên còn được gọi là Ông Tiễu. Khi giặc Pháp xâm lược nước ta, dưới quyền chỉ huy của lão tướng Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm đã lập những chiến công oanh liệt để bảo vệ phòng tuyến Đà Nẵng. Dù lập nhiều chiến công, nhưng tính cách nóng nảy, “Quảng Nam hay cãi” vẫn không thay đổi. Chính vua Tự Đức đã từng nhận xét: “Ngươi vốn con người học thức mà ra, phải cái tính khí cương cường nóng nẩy, phàm việc không chịu ở người sau và vâng theo mệnh người...”.
Chính tính cách này đã giết Ông Ích Khiêm.
Một con người có tính cách gần như độc đoán, nói năng bộc trực ấy về cuối đời mới thấy rằng cứ sống “ngang như cua”, “ăn cục nói hòn” thì thật khó thành công ở đời, thậm chí còn mang họa vào thân. Khi bị đày vào nhà lao Bình Thuận, vì phe cánh trong triều tìm mọi cách ám hại, ông có viết bản di chúc, trong đó có đoạn thấm thía: “phải tuyệt đối theo lời di huấn của ta”: “Tự nghĩ từ nay về sau, các con phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, chớ xem nhẹ ngôn từ. Hãy lấy ta làm gương thì sẽ tránh được điều họa”.
Than ôi! Biết là vậy, ý thức là vậy, nhưng ai có thể thay được dòng máu của mình không?
Về sau, các con của ông như Ông Ích Kiềng, Ông Ích Thiện... cũng tiếp tục hào khí của cha, trước nạn ngoại xâm đã không “mũ ni che tai” mà tham gia phong trào Cần vương chống Pháp; các cháu nội của ông như Ông Ích Đường, Ông Ích Mắng... cũng tích cực tham gia cuộc chống sưu thuế vĩ đại nổ ra vào năm 1908 tại Đại Lộc (Quảng Nam) rồi lan rộng ra cả nước. Trong số các con cháu của ông, có lẽ đáng nể nhất là Ông Ích Đường. Khi bị giặc Pháp chém đầu ở chợ Túy Loan lúc mới 18 xuân, đã nói một câu nổi tiếng: “Dân nước Nam như cỏ cú, giết Đường này còn có trăm nghìn Đường khác sẽ nổi lên. Bao giờ hết mía mới hết Đường”. Câu nói khí phách này, khiến ta nhớ đến anh hùng Nguyễn Trung Trực ở Nam bộ cũng từng khẳng định: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì nước Nam mới hết người đánh Tây”!
Đó cũng là tính cách quyết liệt của danh tướng Ông Ích Khiêm vậy.
Trong nhà lao, Ông Ích Khiêm chọn thời khắc để chết là giờ Tý, ngày 19.7 năm Giáp Thìn. Cũng trong di chúc, ông đã chu đáo nghĩ đến lúc “Hài cốt của ta khi mang về, chọn nơi đồng bằng thoáng mát trong xã mà chôn, chớ không nên chôn vào hang núi và khi mang về trong vòng năm, ba ngày thì phải cử hành mai táng bình thường, không được chôn cất trọng thể, không những đã tốn của vô ích mà còn chuốc lấy tiếng cười chê và nỗi oán ghét của người đời nữa”.
Tính cách của người Quảng cũng thể hiện rõ ở lời dặn dò này. Việc làm cốt thiết thực, đúng thực chất, chứ không cần phải phô trương rình rang, tốn kém vô ích. Với việc “quan, hôn, tang tế”, sau này chí sĩ Phan Châu Trinh cũng hô hào “thực hiện nếp sống văn minh” không khác quan điểm của chúng ta ngày nay. Trong Tỉnh quốc hồn ca I viết năm 1907, làm tài liệu giảng dạy tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Hà Nội) có đoạn:
Chết rồi ma đám đành rành
Bày ra rước khách hành trình, phú trang
Thăm với phúng xem càng nườm nỡ
Chẳng qua là giấy nợ cho nhau
Làm ra năm lợn, mười trâu
Chẳng mong thần hưởng, chỉ cầu khách đông
Còn những chốn làng đông, xã cả
Cậy đón đưa ăn vạ, ăn tai
Đầu heo, nọng thịt, chả vai
Lệ làng, phép nọ bẻ bai trăm đường
Vậy lại cho là thương, là hiếu
Nghĩ mà coi, dính líu vào đâu
Làm cho hết ruộng, hết trâu
Một nhà chua xót, cả bầu no say
Không riêng gì người xứ Quảng mà tâm lý chung của người Việt cũng đều đồng tình với sự phê phán này.
(Trích sách "Người Quảng Nam", NXB Đà Nẵng)
(ĐN sưu tầm và trích đăng)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..