Trang trong tổng số 3 trang (24 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bóng Mưa

Bài của Unhappy nghe hay quá! Mau mau post phần còn lại lên đi Unhappy ui.
"Phong xuy cổ trủng phù vinh tận
Nhật lạc bình sa cốt chiến cao"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bóng Mưa

Mỗi miền có một cái hay hay lạ lạ riêng. Vì vậy ai ở miền nào có bài gì hay hãy post lên cho mọi người cùng tham khảo, để biết chơi hen!
"Phong xuy cổ trủng phù vinh tận
Nhật lạc bình sa cốt chiến cao"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bóng Mưa

BM ở Nam Bộ nên xin gửi bài viết này lên cho mọi người cùng đọc để biết thêm về phương ngữ Nam Bộ.

"ỔNG", "ẢNH". "BỂN" (Về cách phát âm đại từ chỉ người và chỉ chỗ trong tiếng Sài Gòn)

Ở Sài Gòn cũng như ở các tỉnh Nam bộ nói chung, những đại từ chỉ xuất hiện như anh ấy, chị ấy, ông ấy, bà ấy, trong ấy, ngoài ấy, bên ấy trong tiếng nói tự nhiên hàng ngày thường được phát âm "gộp lại" thành 1 tiếng, nghe gần như ảnh, chỉ, ổng, bả, trỏng, ngoải, bển, tuy trên những khí cụ ghi âm chính xác những tiếng này có dài hơi các từ mang thanh "hỏi-ngã).
-------------------------------
( trong các phương ngữ Nam Bộ, cũng như trong hầu hết các phương ngữ Trung Bộ, không có sự phân biệt giữa hai thanh "hỏi" và "ngã": hai thanh này được đồng nhất hóa thành một thanh mà chúng tôi tạm gọi là "hỏi- ngã", tương ứng với hai thanh "hỏi" và "ngã" trong một hệ thống gồm sáu thanh. trong tiếng Nam bộ, thanh này là một thanh có âm vực cao ngang thanh "sắc" khi kết thúc, nhưng xuất phát thấp hơn chừng một cung thành thử nghe gần giống như thanh "ngã" ở Bắc bộ, nếu không kể âm tắc thanh hầu thường cắt thanh này ra làm hai phần.)
--------------------------------

Nhưng không biết từ bao giờ, trên sân khấu, trong phim ảnh và cả trên diễn đàn các hội nghị nữa, cách phát âm tự nhiên này được thay thế bằng một cách phát âm khác hẳn, mà chắc là có ai đó cho là "chuẩn hơn" hay "đúng hơn": thay vì ảnh, chỉ, bển,v.v., ta có thể nghe thầy diễn viên (hay diễn giả) nói "anh ấy, chị ấy, bên ấy" tách bạch, trong đó từ ấy được đánh một trọng âm rất mạnh.
Bài này đặt vấn đề bàn thêm xem thử cách phát âm bình thường (ảnh, chỉ đáng chê trách đến mức nào mà phải bị loại trừ ra khỏi ngôn ngữ nghệ thuật, và cách phát âm hiện dùng trên sân khấu và trong phim có thật là cách phát âm chuẩn hay không
Muốn trả lời mấy câu hỏi này, chúng tôi đã tiến hành ghi âm và phân tích âm phổ trên máy spectrograph cách phát âm những tổ hợp nói trên trong ba phương ngữ khác nhau của Việt Nam: tiếng miền Bắc (Hà Nội), tiếng miền Trung (Huế), và tiếng miền Nam (Sài Gòn), được đặt trong một ngôn cảnh như nhau - trong bốn kiểu câu đơn giản và thông dụng:
Anh ấy mới về quê.
Bên ấy mát hơn nhiều
Tôi muốn gặp anh ấy.
Nó đang ngồi bên ấy.
rồi lần lượt thay anh ấy và bên ấy bằng chị ấy, trong ấy,v.v
Chúng tôi đo độ dài, cường độ chính xác (bằng đơn vị 1/100 giây và 1 db) của từng tiếng trong các tổ hợp đang xét được phát âm theo những quy tắc ngữ âm của từng địa phương so với chiều daì của cả câu được phát âm với tốc độ nói chuyện thoải mái (từ 1,60 giây đến 2 giây mỗi câu), có chú ý đến cách dùng từ của từng địa phương (ở Huế,ấy được thay bằng nớ, nhược hoá thành na hay a; ở Saì Gòn, từ chỉ xuất được giả địnhnhư được dùng thay cho ấy là đó; "hoà đúc" vào tứ đi trước, nó thành một tiếng mang thanh "hỏi-ngã" theo mẫu của cách hòa đúc không có "hổng] thường thấy trong phương ngữ Nam Bộ.
Những kết quả thu được trên máy (thiết bị vi tính hoá CECIL for Windows) cho phép chúng tôi nhận xét những điều sau đây:
1. Trong các tổ hợp đang xét, ở cả ba phương ngữ không có trường hợp nào từ chỉ xuất đi asu (ấy, đó, nớ) mang trọng âm;
2. Ngược lại, từ ấy bao giờ cũng được phát âm với một độ dài xấp xỉ 2/5 độ dài của từ đi trước và một cường độ xấp xỉ bằng 1/4 cường độ của từ này. Như vậy, trong anh ấy chẳng hạn, anh tuy không mang trọng âm ngữ đoạn, vẫn mạnh và dài khoảng gấp ba ấy (nhược hoá thành í trong tiếng Hà Nội, thành a trong tiếng Huế);
3. Độ dài cộng lại của hai từ anh í (Hà Nội), anh a (Huế) và độ dài của ảnh (Sài Gòn) hoàn toàn bằng nhau (khoảng 0,27 giây); trong khi đó, độ dài của ảnh "đại từ chỉ người" có nhỉnh hơn độ dài của ảnh trong hình ảnh, do phần cuối (phần cao nhất) của âm tiết được kéo dài thêm.
4. Trong tiếng Hà Nội, tổ hợp chị ấy trong câu nói tự nhiên phát âm gần hoàn toàn giống như từ *chĩ (thanh "ngã"); người Hà Nội nghe băng ghi âm không thể phân biệt đâu là chị ấy, đâu là chĩ, tuy trên bản ghi âm có thể thấy rõ sự chênh lệch về độ dài giữa hai bên.
-----------------------
(*: dĩ nhiên tiếng Hà Nội (cũng như các phương ngữ khác) không có từ này. Vì vậy khi chĩ được phát âm trong câu, người Hà nội bao giờ cũng hiểu là "chị ấy".)
-----------------------
Trong cả ba phương ngữ, các tổ hợp đang xét chỉ được phát âm tách bạch, không bị nhược hoá, với một trọng âm ngữ đoạn đánh vào từ đi sau (ấy, nớ, đó) khi nào được hiểu như là những ngữ đoạn danh từ thực thụ (chứ không phải như một đại từ), nhất là khi cái ngữ đoạn danh từ ấy làm thành tiêu điểm của câu, chỉ những đối tượng được nêu bật lên trong một sự tương phản rõ nét với các đối tượng khác. Trong những câu như:


Chính ông anh ấy làm hại nó chứ không phải ai khác.

Người chị ấy cũng đồng thời là mẹ của tôi.

Cái bề ngoài ấy đã làm cho nhiều người lầm.  


dĩ nhiên không thể phát âm:


Chính ông ảnh làm hại nó chứ không phải ai khác.

Người chĩ/chỉ đồng thời cũng là người mẹ của tôi.

Cái bề ngoải đã là cho nhiều người lầm


dù là ở Nam Bộ hay ở bất kỳ địa phương nào khác.

--------------------
(Nếu không có khung cảnh của cả câu, với cách phát âm ông ảnh sẽ được hiểu thành "ông của anh ấy", người chĩ sẽ được hiểu thành "thân hình của chị ấy".
--------------------
Thái độ lên án cách phát âm này xuất phát từ một định kiến hoàn toàn vô căn cứ về “những hiện tượng tiêu cực của tiếng địa phương”. Nó đưa đến một hậu quả tai hại là làm tăng cái mặc cảm vô lý của người dân đôối vơới tiếng mẹ đẻ của mình. Hơn nữa, nó buộc các diễn viên phải nói theo một kiểu cách rất thiếu tự nhiên, nghe như đọc trong sách ra. Tệ hơn nữa, cái kiểu phát âm này lại đi ngược ại những quy tắc ngữ âm của ngôn ngưữ toàn dân, trong đó có cả cái được mọi người thừa nhận là “tiếng Viêệt chuẩn”, và do đó làm nảy sinh trên sân khấu và trong phim ảnh một thứ tiếng Việt kỳ cục, “chẳng giống ai”.
Cách phát âm anh ấy, chị  ấy thành hai tiếng rời nhau với một trọng âm đặt trên chữ ấy khi các tổ hợp này làm đại từ hồi chỉ là một cách phát âm hoàn toàn sai, không riêng gì đối với tiếng Nam bộ, mà đối với tất cả các tỉnh, các vùng trên lãnh thổ Việt Nam. Nó làm mất một sự phân biệt cần thiết giữa một đại từ và một danh ngữ, và do đó làm nghĩa của câu khác đi, hay khó hiểu đúng, hay ít nhất cũng rất thiếu tự nhiên, nếu không phải là kỳ cục.
Nói những điều này có lẽ không cần thiết đối với người Nam bộ bình thường: xưa nay họ vẫn nói như thế, nghĩa là nói đúng theo những quy tắc của tiếng mẹ đẻ, trong khi dùng tiếng Việt để giao tiếp hàng ngày, và dù có xem kịch, xem phim bao nhiêu, dù có ai chê bai quở trách bao nhiêu họ cũng vẫn nói đúng- vì đó là cách nói chuẩn xác nhât và quen thuộc nhất.
Nhưng nó là cần thiết đối với các diễn viên và nhất là đối với các nhà đạo diễn. Cách đây mươi năm, trong khi giảng về ngữ âm tiếng Việt cho các sinh viên trường Nghệ Thuật Sân Khấu, tôi có trình bày vấn đế này, và bao giờ cũng tìm được sự đồng tình trong tất cả các sinh viên nghe giảng. Họ nói: “Phải chi cho tụi em phát âm như vậy thì chắc chắn là tụi em sẽ dễ nói tự nhiên hơn nhiều trong khi diễn”.
Nhưng không hiểu sao cho đến nay tình hình trên sân khấu vẫn như cũ. Không biết có phải vì các nhà đạo diễn có ý muốn “chuẩn hoá dần dần” cách phát âm của diễn viên đó không.
Tiến tới chuẩn hoá là một quá trình tất yếu đối với bất kỳ ngôn ngữ quốc gia nào. Nhưng đây là một quá trình tự nhiên có tính quy luật của nó, và tuy người dân, nhà nước, các cơ quan văn hóa có thể chủ động khuyến khích quá trình này, nhưng không thể làm việc này một cac1h vội vàng và thiếu cơ sở, nhất là bằng cách ép người học chấp nhận những kiểu phát âm hoàn toàn trái với những chuẫn mực đã hình thành rồi trong ngôn ngữ toàn dân, như các quy tắc trọng âm đã nói ở trên. Còn như trpng tình hình hiện nay, không có lý do gì để cho rằng có những hiện tượng nào đó “tiêu cực” đến nỗi phải “sửa” ngay trong khi toàn bộ hệ thống, trong đó mọi thứ đều có quan hệ hữu cơ với nhau, và do đó mà đều hợp lý, vẫn còn nguyên như cũ.

Cao Xuân Hạo (đăng lần đầu trên Tạp chí khoa học xã hội, 1999)
(Trích Tiếng Việt-Văn Việt- Người Việt)
"Phong xuy cổ trủng phù vinh tận
Nhật lạc bình sa cốt chiến cao"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

unhappy

Tiếp này, nhưng dài quá đọc hơi mỏi mắt.

Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!.” Mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang “màu sắc” riêng.

Người Sài Gòn có cái kiểu gọi “Mày” xưng “Tao” rất “ngọt.” Một vài lần gặp nhau,nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Sài Gòn mày tao liền. Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô thiển mà còn rất ư là thân thiện và gần gũi.

Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn bè của người Sài Gòn. Cách xưng-hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn bè; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi. Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách gọi này nó...tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như "cậu cậu - tớ tớ" của miền Bắc. Nói chuyện bạn bè với nhau, thân thiết mà gọi mấy tiếng mày mày tao tao thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoai khoái làm sao ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn.

Đấy là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy “tụi nhỏ” sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng “con” ngọt xớt. Có vẻ như người Sài Gòn "ưa" tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như đa phần dân miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước lượng tuổi của người đối diện. Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì "Dì ơi dì...cho con hỏi chút...!" - còn lớn hơn thì dĩ nhiên là "Bác ơi bác..." rồi. Khi gọi một cách thân mật có ý khuyên bảo với một em nhỏ, người Sài gòn thường nói “Nầy, chú em…”

Những tiếng mợ, thím, cậu,... cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện mà gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím. Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng “con” chứ không phải “cháu cháu” như một số vùng khác. Cái tiếng “con” cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao mà quen thuộc, và gần gũi đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có cảm tình liền.

Nói tiếp chuyện xưng-hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này :

Ông đó = ổng
Bà đó = bả
Anh đó = ảnh
Chị đó = chỉ

Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở nên giữ vai trò quan trọng... ngộ nghĩnh vậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông? Gọi vậy mới đúng là chất Nam Bộ - Sài Gòn á nghen.

Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo... số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm...Mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào. Thành ra có cách gọi : chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng, anh Sáu Lèo ...

Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng "anh-chị-em" đôi khi được...giản lược mất luôn, trở thành "Hai ơi Hai, em nói nghe nè..." và "Gì dzạ Út ?.”..Tôi thích cách gọi này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện nhờ là cứ "Út ơi...con nhờ chút!" hoặc với mấy chị tôi thì "Hai ơi Hai...em nói nghe nè!”

Cách gọi này của người Sài Gòn nhiều khi làm người miền khác nghe hơi...rối. Có lần, kể cho người bạn ở Hà Nội nghe về mấy người anh chị trong gia đình. Ngồi kể lể "anh Hai, chị Hai, dì Hai, Út, cậu Hai, mợ Hai, chú Ba..." một hồi cái bị kêu là hổng hiểu, xưng hô gì rối rắm quá chừng, làm phải ngồi giải thích lại suốt một hồi...lâu.

Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc biệt của cả một mảnh đất miền Nam sông nước. Cứ thế, không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế thương. Cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương…

Nỗi sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

donbaclieu78

Vui nhỉ?
Trăm năm trước thì ta chưa biết _Trăm năm sau biết có gặp không?_Cuộc đời sắc sắc không không_Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng (1)
Lê Minh Quốc

Không riêng gì Quảng Nam - Đà Nẵng có những thổ ngữ hoặc cách phát âm khiến nhiều người khác khó nghe, khó hiểu, các địa phương khác cũng có những trường hợp tương tự như vậy. Nhưng đó lại chính là hồn quê của mỗi địa phương.

Trích sách "Người Quảng Nam" - tác giả Lê Minh Quốc

8.
Khảo sát về giọng nói Quảng Nam là một công trình lớn cần có sự đóng góp của nhiều người, nhiều giới. Không riêng gì Quảng Nam - Đà Nẵng có những thổ ngữ hoặc cách phát âm khiến nhiều người khác khó nghe, khó hiểu, các địa phương khác cũng có những trường hợp tương tự như vậy. Nhưng đó lại chính là hồn quê của mỗi địa phương. Chỉ cần nghe giọng nói, là người ta nhận ra bóng dáng của quê nhà - đã có lần tôi cảm nhận:

Bóng hình này giống người ta
Nhưng kìa giọng nói như là giọng tôi
Hồn quê đặt ở trên môi
Tưởng nghìn cây số xa xôi vọng về

Ở đây, tôi chỉ mạn phép bàn về giọng Quảng trong sự ngẫu hứng sau khi đọc bài vè của tác giả Nguyễn Tiến Nhẫn in trong tập Bảo An đất và người (NXB Đà Nẵng, 1999). Thử đọc bài vè này, ta có thể sẽ hiểu ít nhiều một vài kiểu phát âm của người Quảng Nam:

Quê tôi A phát thành OA
Ă thành E hết, AO ra Ô mà...

Không những thế, ta thấy họ còn phát âm OAI thành UA (như nhớ hoài: nhớ hùa); OI thành UA (như nói năng: núa neng); ĂN thành EN (như muối mặn: muối mẹn)... Có chuyện rằng, một cậu bé Đà Nẵng thấy con gì đó đang bò trên tường, vừa kêu lên vừa đưa tay chỉ cho thằng bạn mới từ Sài Gòn ra xứ Quảng chơi:

- Ê, cua kìa! Con chi mà lọa!

Thằng nhóc Sài Gòn lấy làm lạ, liền ngước mắt lên nhìn thì có thấy con cua gì đâu! Chỉ thấy... con thằn lằn!
ẮT thành ÉC (như tắt đèn: téc đèn. Có trường hợp “ngoại lệ” như xa lắc: xa léc - xa quéc); AM thành ÔM (như làm: lồm)... Và khi đặt câu hỏi người ta thường dùng thổ ngữ: ri (như thế này), rứa (vậy, thế), răng (sao), mô (đâu), hỉ (hả) v.v...; khi nghe thế người kia trả lời: nớ (kia), tê (kia), ni (đây), trển (trên), chừ (bây giờ), chi (gì) v.v... Ta thử đoán xem, họ đang nói gì:

Chừ hay mai mốt anh ơi
Chu choa lâu rứa lơi bơi trổ trời
Ba nhe là bậu ba rơi
Ba lia, ba lém cùng đời ba lơn
Mưa dầm thấm đất lấm lem
Mưa chi dai nhách ba bên bốn bề

Ở đây, chữ "trổ trời" có thể hiểu là tính từ chỉ một hành động nào đó vượt ra ngoài khuôn phép - chẳng hạn, đứa con trong nhà không ngoan, hư đốn quá lắm, người mẹ mắng: "-Cái thằng hư trổ trời!" là vậy. Nhưng cũng để diễn đạt ý nghĩa tương tự, ở cấp độ thấp hơn, người ta còn dùng từ "hoang", như: "-Cái thằng ni hoang quá". Người ta gọi là "ngẳng" để chỉ sự nghịch ngợm, như: "Cái thằng chơi ngẳng ghê, ai đời hắn lấy kéo cắt râu mèo". Ta đọc tiếp:

Mùa nam cau chuối héo queo
Vàng rùm đồng lúa, ốm teo cả người
Trâu bò hết cỏ nhá nhơi
Ô hồ cạn xịt, phơi khô dâu tằm
Hạn chi hạn miết khô rang
Nắng chi nắng miết nắng chang chang trời
Nắng cho hết nghí ngỡn cười
Ở trần chẳng dị, quạt lì ra tay

Ở đây, "ô" là ao, "cạn xịt" nghĩa là nước trong ao hồ đã cạn chỉ còn xăm xắp nước, tương tự "ít xịt" là rất ít; "miết" là mãi, chỉ một hành động kéo dài - chẳng hạn câu thơ của Lưu Trọng Lư "Mưa chi mưa mãi", người xứ Quảng hiểu là "Mưa chi mưa miết"; "nghí ngỡn" ta có thể hiểu là dễ ngươi, lờn mặt, đùa giỡn thái quá tùy ngữ cảnh, như: "-Đừng có nghí ngỡn, sắp mưa rồi đó, mau chạy về nhà đi"; "dị" là mắc cỡ, e thẹn; còn "dị òm" là hết sức mắc cỡ, tương tự như thế người ta còn nói "mắc tịt"...

Mùa ni bí rị phát khùng
Nực chi xà lỏn vẫn lùng bùng tai
Cầu trời túi mốt sớm mai
Nồm về thả cửa mát rười rượi nhau

"Bí rị" là bít bùng, không lối thoát, tắc nghẽn như trong câu hỏi: "Buồn chi mà mặt mày bí rị rứa?"; nhưng "rị" lại là kéo, như: “-Cây ni nặng lắm, bọn bay tới rị giùm tau với”; “túi” là tối, còn “túi thui” là rất tối...

Tới đây tao biểu mi nè
Cháo ngọt đậu ván bát chè thơm thơm
Mình đâu có phỉnh mà lờn
Uống ăn ngọt xớt còn thơm lựng lừng

"Biểu" là bảo; "phỉnh" là dụ dỗ, gạ gẫm; "ngọt xớt" là rất ngọt... Trong ca dao xưa ở xứ Quảng có câu:

Một nong tằm là năm nong kén
Một nong kén là chín nén tơ
Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ
Linh đinh quán sấm, dật dờ quán sen

Thú vị quá, ta hãy tìm hiểu thêm một vài thổ ngữ khác, chẳng hạn "điệu" là làm dáng như: "- Chà! Bữa ni ăn mặc điệu quá ta!", tương tự như thế còn có chữ "gồ" nữa; "gò" là tán tỉnh như: "-Cái thằng ni trổ trời, hỉ mũi còn chưa sạch mà đã gò gái"; thuở nhỏ, tôi còn nghe một từ tương tự là "cua" như: "- Anh Tư đi cua gái hay reng mà cái đầu láng mướt rứa hè?"; "ế" dành để chỉ những cô gái lỡ thì, không có người cưới hỏi; "ghế" là chỉ cơm độn với ngũ cốc như: "- Cơm bữa ni ghế với khoai lang"; "hú hí" là nhỏ to với nhau; "in" là giống nhau như đúc; "không reng (răng)" là không sao, đừng sợ như: "- Chó sủa thôi chớ không reng mô"; "lợt nhớt" là quá lợt; "rượng" là "ngứa nghề"; "sít rịt" là sít với nhau không hở; "trịt" là tẹt như: "- Cô kia cái mặt cũng dễ coi nhưng tiếc cái mũi trịt"; "ủm" là thu hết về cho mình, như để chỉ hành động ôm em bé vào lòng mình làm cho bé ấm áp, người ta nói: "- Ủm em", còn "ẵm" là bồng...
Tôi còn nhớ thuở nhỏ, mẹ tôi đã hát ru bài đồng dao xứ Quảng:

Con chim se sẻ
Nó đẻ mái tranh
Tôi vác hòn sành
Tôi lia chết giãy
Tôi đem tôi kỉnh
Cho thầy một mâm
Thầy hỏi chim gì?
Con chim sẻ sẻ

Ta biết "kỉnh" là biếu, "lia" là ném, là vứt. Lại nữa, "phách" là phách lối, kiêu căng, kiêu ngạo như: "- Mày chữ nghĩa bao nhiêu? Không đầy lá mít! Đừng có mà làm phách"; "xanh xảnh" là nói hỗn, thiếu lễ phép như: "- Cô kia nói chuyện với bà già mà cứ xanh xảnh cái giọng"; "yểu xìu" là quá yếu; "tổ chảng" là to lớn, có câu nói: "- Đình làng tổ chảng uy nghi lạ thường"; nhưng mập quá cỡ thì họ là nói "mập ú"; trái cây mua về, chưa chín, thường người Quảng Nam bỏ vào trong hũ gạo, đợi chín thì gọi là "giú"; "cái ảng" là cái lu như: "- Chiều ni mi đi gánh nước đổ đầy ảng nghe!"; "giả đò" là "giả vờ", tương tự còn có "làm bộ làm tịch"... Ca dao Quảng Nam có câu:

Giả đò buôn kén, bán tơ
Đi ngang qua ngõ đưa thơ cho chàng

Khi nghe mẹ ru em:

Chiều tà ngả bóng nương dâu
Vịn cành bẻ lá em sầu duyên tơ

Thì ta hiểu "vịn" là "dựa vào". Không chỉ có thế, họ còn nói "thọa" là cái hộc tủ; "cụi" là tủ đựng thức ăn, đặt dưới bếp - thông thường thị dân còn gọi là cái "gạc măng rê" (phiên âm Garde manger của Pháp). Cái cụi này ở nông thôn xứ Quảng, người ta thường để bốn cái tô bằng sành, rẻ tiền, dưới bốn chân tủ, đổ đầy nước để ngăn kiến, sâu bọ không theo đó mà leo lên; "lủm" là từ chỉ hành động bốc một vật gì đó bỏ vào trong miệng, như: "-Miếng thịt mới đây đứa mô lủm rồi?"; "trã" tương tự như cái chảo, làm bằng đất, không sâu chỉ trèn trèn, dùng để kho cá; "kiệt" là hẻm; "kiết" là keo kiệt, như: “- Thằng cha ni giàu mà kiết"; "đầu dầu" là đầu trần, như thấy người kia đi giữa nắng chang chang không đội nón, người này nói: "- Reng (răng) mà đi đầu trần (hoặc đầu dầu) rứa? Không sợ cảm néng (nắng) à?"; "ở dổng" là ở truồng, như người ra thường nói: "-Không biết dị à? Lớn rồi mà còn ở dổng!"; "hục" là "hố" như ta thường nghe: "- Mi ra ngoài kia đào cho tao cái hục, sâu chừng nửa thước"; ướt đẫm thì họ nói là "ướt nhẹp"...
Nghĩ cũng lạ cho thổ âm, thổ ngữ địa phương. Mới đây, khi đến Huế dự festival Huế 2006 tôi đã "phát hiện" ra chữ “té” ngộ nghĩnh của người miền Trung nói chung. Lúc ấy, đang ngồi ăn chè trên bờ bắc sông Hương, chè hạt sen ngọt mà thanh, ăn đến đâu mát rượi đến đó bỗng tôi giật bắn người khi nghe người chị bảo cô em nhỏ: "-Ăn xong rồi, té ghế mà về". Ủa! Cái gì lạ vậy? Sao lại có "té" mà lại "té ghế" ở đây? Với người Quảng Nam, "té" là ngã, vấp ngã, vấp té như có câu: "-Kìa! Đi đứng sớn sác coi chừng té dập mỏ!". Với người Huế, để nói ai đó bị "té" thì họ lại dùng chữ "bổ", ta thường nghe nói đến các từ liên quan như bổ lăn cù (té lăn), bổ ngửa (té nằm ngửa), bổ nhào (té nhào)… Người Huế và người Quảng Trị cũng dùng từ té, nhưng cụ thể ý nghĩa của "té ghế" lại là… "nhường ghế cho người khác ngồi

Còn tiếp...
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng (2)
Lê Minh Quốc

Trước đây, tại Quảng Nam có nhà thơ lấy đặc sản quê hương làm bút danh. Đó là Nam Trân. Ông tên thật Nguyễn Học Sỹ (1907- 1967), quê tại làng Phú Thứ thượng, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc.
Từ thuở nhỏ, ông học chữ Hán, sau đó vào học Quốc học Huế rồi ra Bắc học trường Bảo hộ ở Hà Nội. Những năm tháng ở Huế, ông đã hoàn thành tập thơ Huế đẹp và thơ và được Hoài Thanh tuyển chọn trong Thi nhân Việt Nam với những lời nhận định: "Lối thơ tả chân vốn xưa ta không có. Đây đó rải rác cũng nhặt được một đôi câu; nhưng đến Nam Trân mới biệt thành một lối. Nam Trân đã tìm ra một khoảnh đất mới và ở đó người đã dựng lên - ý chừng để sát nhập làng thơ Việt - cái cảnh núi Ngự sông Hương. Thiết tưởng vị tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra Huế món quà nào cao quý hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ".
Bút danh của nhà thơ có được là do quá yêu mến đặc sản của quê mình. Theo truyền thuyết, trong một lần giao tranh với quân Tây Sơn, chúa Nguyễn phải trốn chạy lên vùng đất phía tây Quảng Nam. Trong lúc ngặt nghèo, nguy khốn nhất, bốn phía bị bao vây, lương thực không còn thì chúa tôi gặp một loại trái cây chín mọng. Chưa dám ăn ngay, chúa lấy tay bấm thử thì thấy trái mềm, nếm thấy ngon ngọt lạ lùng. Nhờ trái cây này mà họ thoát khỏi cảnh đói khát. Truyền thuyết này góp phần lý giải vì sao khi cầm loại trái cây này, lột vỏ mỏng, thì ta đều thấy có dấu móng tay. Đó là loại trái cây mà trong ca dao xứ Quảng còn lưu lại:

Tay em cầm nón, tay em chọn loòng boong
Trái nào vừa ngọt, vừa ngon
Dành riêng cho bạn nghĩa nhơn nặng tình

hoặc:

Trái loòng boong trong tròn, ngoài méo
Trái thầu đâu trong héo, ngoài tươi
Thương em ít nói, ít cười
Ôm duyên mà đợi chín mười con trăng

hoặc:

Lụt nguồn trôi trái loòng boong
Cha thác mẹ còn chịu chữ mồ côi
Mồ côi tội lắm ai ơi
Đói cơm không ai biết, lỡ lời không ai phân

Nhưng thật ra, không phải chúa Nguyễn là người phát hiện ra trái cây này và đầu tiên khẳng định là nó ăn được. Trước đó, người Chiêm Thành cư ngụ trên mảnh đất này chắc chắn họ đã biết đến, nhưng không rõ họ đặt tên là gì? Có người cho rằng, loòng boong đó là cách phát âm chữ “T’rbon” của người Cơ Tu ở huyện Giằng hiện nay. Khi lập được nghiệp đế vương, vua Gia Long xuống dụ hàng năm, vào tháng 9, dân xứ Quảng phải tiến trái loòng boong ra kinh đô để dùng vào việc tế tự. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Đầu đời Minh Mạng, nhà vua ban cho tên là Nam trân”.
Như thế cái tên Nam trân - tức quả quý như ngọc ở phương Nam ít ra đã có từ năm 1820. Chưa dừng lại đó, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc chín cái đỉnh đồng lớn (Cửu Đỉnh) đặt ở Thế Miếu. Theo sử sách, vua Minh Mạng bắt chước vua Hạ Vũ xưa đúc Cửu đỉnh tượng trưng chín châu bên Tàu. Nhưng cũng còn có cách lý giải nữa, mỗi đỉnh tượng trưng cho một ông vua triều Nguyễn: Cao (Gia Long), Nhân (Minh Mạng), Chương (Thiệu Trị)... và cuối cùng là Huyền đỉnh. Huyền còn có nghĩa là mất. Vô tình (hay sự tiên đoán) về vận mệnh triều Nguyễn? Quan sát Cửu đỉnh, chúng ta bàng hoàng lẫn khâm phục trước nghệ thuật đúc đồng của người thợ khéo tay của Huế xưa. Tất cả có 135 hình được chạm trổ trên cửu đỉnh, trong đó có hình ảnh Nam trân khắc trên "Nhân đỉnh" - như thế đủ biết loại trái cây này được vua nhà Nguyễn trân trọng biết chừng nào.
Ngày trước ở thượng nguồn sông Vu Gia nổi tiếng với rừng loòng boong và hàng năm đến rằm tháng tám âm lịch có hội "ngày xả trái". Ngày ấy nhộn nhịp, náo nhiệt không thua kém gì cảnh sĩ tử trước trường thi nên ở Quảng Nam mới có câu "Nhứt trường thi, nhì trường trái" là vậy.
Trong tập thơ Huế đẹp và thơ của Nam Trân, đặc biệt bài Eng có sử dụng một vài thổ âm, thổ ngữ của đất Quảng - ta có thể hiểu “eng”: ăn; "đậu doáng": đậu váng; "đậu hảu": đậu hủ; "hột dịt": hột vịt; "eng hung": ăn lắm, ăn nhiều...

Ai eng chè đậu doáng
Ai eng đậu hảu không?
Ai eng hột dịt lộn
Ai ít ngọt? Xôi hông...?
Đến Faifo, khách lạ
Ai nấy cũng dửng dưng:
Quảng Nam đất văn vật
Sao lắm bợm “eng hung”?
Eng hung và uống nhiều
Thần Dạ dày muôn tuổi
Đặc điểm có gì đâu?
Chè ngọt gia tí... muối
Vì thế nên ngày xưa
Thí sinh ra đất Huế
Môn chữ càng được khen
Môn "eng" càng bị chế

(Trích sách "Người Quảng Nam" - tác giả Lê Minh Quốc)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng (3)
Lê Minh Quốc

Hiện nay, "thương hiệu" tơ lụa Quảng Nam vẫn còn giữ một vị trí đáng kể trên thương trường. Có một điều không thể không tự hào, tại Sài Gòn khi nhắc đến địa danh Bảy Hiền (quận Tân Bình) lập tức người ta biết đây là làng dệt của người Quảng Nam và nơi đó cũng còn giữ được nhiều thổ âm, thổ ngữ quê nhà.
Bây giờ, ta tiếp tục đọc bài vè trên, đoạn nói về nghề trồng dâu nuôi tằm rất nổi tiếng ở đất Quảng. Nhân đây, thiết tưởng cũng nên nhắc lại rằng, từ năm 1615, thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Lan đã xe duyên với cô thôn nữ Đoàn Thị Ngọc Phi ở thôn Diên Sơn (huyện Diên Phước). Hai người sống với nhau rất hạnh phúc ở dinh trấn Thanh Chiêm. Về sau người dân Quảng Nam xưng tụng bà Ngọc Phi là Bà Chúa Tầm Tang, vì đã có công lớn trong việc khuyến khích nghề trồng dâu nuôi tằm. Vùng đất này nổi tiếng với các mặt hàng tơ lụa không thua kém gì hàng của nước ngoài, một phần là nhờ chủ trương đúng đắn của bà. Hiện nay, lăng mộ của bà, gọi là lăng Vĩnh Diên tọa lạc tại Gò Cốc, làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh (Duy Xuyên) được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích văn hóa, lịch sử. Hằng năm đến ngày 14/3 âm lịch, nhân dân và tộc họ quanh vùng thường làm lễ dâng hương và tưởng niệm công đức của bà.
Trong tập ký sự viết năm 1621, Cristophoro Borri ghi nhận: "Còn tất cả những gì thuộc về đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất, là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì thế đã hơn một lần tôi rất thích thú thấy đàn ông, đàn bà khuân vác đá, vôi và những vật liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo đẹp, khỏi rách hay bẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết rằng có những cây dâu cao lớn người ta hái lá nuôi tằm được trồng trong những thửa ruộng lớn như cây gai bên ta (tức ở Italy) và mọc lên rất chóng. Thế nên chỉ trong một ít tháng là tằm được nuôi ra ngoài khí trời và đồng thời nhả tơ, làm thành cái kén nhỏ với số lượng rất nhiều và dư thừa đến nỗi người Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà còn bán cho Nhật Bản và gửi sang Lào để rồi sang Tây Tạng. Thứ lụa này tuy không thanh và mịn, nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu".
Hiện nay,"thương hiệu" tơ lụa Quảng Nam vẫn còn giữ một vị trí đáng kể trên thương trường. Có một điều không thể không tự hào, tại Sài Gòn khi nhắc đến địa danh Bảy Hiền (quận Tân Bình) lập tức người ta biết đây là làng dệt của người Quảng Nam và nơi đó cũng còn giữ được nhiều thổ âm, thổ ngữ quê nhà. Cái làng dệt Bảy Hiền này nổi tiếng không kém gì Chợ Lớn - nơi tập trung hầu đông đúc người Hoa tại Sài Gòn.
Đã "lỡ trớn" lan man về chuyện dệt, thì cứ nói luôn thể. Ai có chê "lạc đề" thì cũng đành chịu! Mà không nói thì chịu không được, bởi sự tự hào của quê mình mà mình không kể ra thì coi sao được? Có thể nói những người thợ dệt Quảng Nam có công rất lớn trong việc chế tạo ra loại vải Xi-ta một thời rất nổi tiếng. Trong kháng chiến chống Pháp, loại vải này được chọn may trang phục, làm chăn đắp cho bộ đội. Không những thế, quân dân Quảng Nam còn may bộ quân phục bằng vải này để kính tặng chủ tịch Hồ Chí Minh - mà nay vẫn còn trưng bày tại Bảo tàng Quân đội. Gọi là vải Xi-ta vì vải dệt ra chắc bền, mặt vải mịn, trơn, phơi mau khô không thua gì chất lượng của loại vải Socièté Industrielle de Trxlile d’Annam do Pháp sản tại Việt Nam (viết tắt là S.I.T.A) mà người dân thường đọc trại thành Xi-ta. Sự tôn vinh nghề nghiệp qua một loại vải nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của người phụ nữ ở xứ Quảng.
Bà tên Trần Thị Khương (1906-1965) quê ở La Thọ (Điện Bàn), mọi người thường gọi bà Tân - gọi theo tên chồng. Sinh ra trên vùng đất có truyền thống về nghề dệt, sau khi có chồng, theo chồng về Đà Nẵng làm ăn, bà cũng không bỏ nghề. Cuối năm 1946, khi giặc Pháp đánh Đà Nẵng bà chạy về quê, rồi vào An Phú (Tam Kỳ) sống bằng nghề làm bánh tráng. Bấy giờ, thực hiện chủ trương của Chính phủ toàn dân “tự lực tự cường” để phục vụ kháng chiến, bà Tân khôi phục lại nghề cũ và kêu gọi thợ An Phú, xóm hàng chợ Vạn cùng góp vốn sản xuất. Bà còn có sáng kiến làm bàn quay đánh chỉ để đánh được 5 - 6 cặp, sau cải tiến nâng lên 20 - 30 cặp. Rồi từ quay tay, bà cải tiến sang đạp chân để tăng năng suất. Trong khi đó, chồng bà cùng nhiều thợ giỏi đi nhiều nơi trong tỉnh và vào tận Quảng Ngãi để tìm giống tốt và đặt hàng trồng bông kéo sợi...
Tiếng lành đồn xa. Công ty Việt Thắng - đang hoạt động tạo vốn cho Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã đặt hàng xưởng dệt của bà nhuộm màu tro bằng than để may quân phục cho bộ đội. Không những thế, để phục vụ kháng chiến, bà và những thợ giỏi đã được Công ty Việt Thắng mời đi truyền nghề cho thợ của các tỉnh phía nam. Hình ảnh những người thợ bình dị, nhẫn nại, giỏi nghề dệt đã lặng lẽ đóng góp cho kháng chiến là niềm tự hào của con dân xứ Quảng.

Làng ta ươm dịt tơ tằm
Tay thoi dịu nhút đũa tranh sợi vàng
Vải ta chẳng dúng láng giềng
Khổ tuy hẹp tré nhưng mình mịn thanh
Lụa mỡ gà, vải Hà Đông
Đông hàn ấm hỉn, hè nồng mát ghê
Tuýt-so chỉ đánh hết chê
Đúng bộ đồ lớn bắt mê bắt thèm
Sa-tanh, hạnh phước đệm bông
Mặc vô mướt rượt anh hoanh hơn nàng
Trơn lu láng cón tay rờ
Gái trai thêm ngộ, thêm gồ, thêm ngon

Ở đây ta có thể hiểu "dịt" là dệt, "dúng" là giống; "mướt rượt" là rất mướt, mướt hết chỗ chê... Đọc qua cái câu "Lụa mỡ gà, vải Hà Đông", xin đừng nhầm với đại danh Hà Đông ở ngoài Bắc trong câu thơ "Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Xin thưa, Hà Đông chính là Tam Kỳ ngày nay, được đổi tên từ năm 1906. Ta hiểu "hẹp tré" là hơi hẹp; "trơn lu" là rất trơn... Vậy đó, giọng nói Quảng Nam với những đặc trưng riêng đã tạo nên một bản sắc khá độc đáo...
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Vài thổ âm, thổ ngữ của người Quảng (4)
Lê Minh Quốc

Vậy đó, giọng nói Quảng Nam với những đặc trưng riêng đã tạo nên một bản sắc khá độc đáo. Các nhà thơ quê quán ở Quảng Nam cũng ít nhiều tận dụng yếu tố này làm nên những vần thơ đặc sắc.
Chẳng hạn, trong tiểu thuyết  Quán Gò đi lên của nhà văn  Nguyễn Nhật Ánh, người quê Thăng Bình có cho biết nhà thơ Tường Linh, người quê Quế Sơn từng viết:

Rủ nhau vô núi hái chơm chơm,
Nhớ bạn hồi còn học chữ Nơm.
Sáng sáng lơn tơn đi nhử cuốc,
Chiều chiều xớ rớ đứng câu tơm.
Mùa đông tơi lá che mưa bấc,
Tiết hạ hiên tranh lộng gió nờm.
Nghe chuyện xóm xưa thời khó lửa,
Sảng hồn, sấm nổ tưởng đâu bơm!

Thế thì vần "ÔM" ở Quảng Nam người ta đều phát âm thành "ƠM" hết trọi. Nhưng không chỉ có thế, vần "AM" lại cũng phát âm thành.... "ÔM"! Thử đọc bài thơ của nhà thơ Tú Rua, người quê Đại Lộc:

Rứa mới kêu là chất Quảng Nôm,
Ăn cục nói hòn chẳng thôm lôm.
Có chàng công tử quê Đà Nẽng,
Cưới ả Thúy Kiều xứ Phú Côm.
Cha vợ đến thăm chào trọ trẹ,
Mẹ chồng không hiểu nói cồm rồm.
Thêm ông hàng xóm người Hà Nội,
Chả hiểu mô tê cũng tọa đồm.

Ta thử đọc thêm bài thơ Hồi xưa tôi đã tỏ tình của nhà thơ  Nguyễn Nhật Ánh để hiểu thêm một vài từ thông dụng khác:

Nè mi mới dọn tới bên nhà
Dị òm tau cũng bước chưn qua
Ba đi một cấp, răng về kịp?
Mẹ chắc giờ ni ở chỗ bà
Mi ở Điện Bàn hay Duy Xuyên
Tết ni không nói chuyện tình duyên
Tết mô mới nói cùng mi hỉ
Không nói mần răng ván đóng thuyền
Nói thiệt chớ ai thèm nói lung
Nghĩ chi lạ rứa, tội tau không
Gặp mi bửa nớ ưng mi gướm
Cái nhớ mỗi ngày thêm nhớ hung
Quà xuân, tau nhét vô trong thụng
Xí nữa gặp mi, tau lấy ra
Còn y nguy đó, răng mà mất
Rủi mất thì tau sắm lại quà...

"Tau" là "tao", "chưn" là chân; "dị òm" là mắc cỡ, mắc cỡ lắm lắm; "một cấp" là một lát; "nói lung" là nói giỡn; "ưng" là thương; "gướm" là "gớm"; "nhớ hung" là rất nhớ, nhớ lắm; "thụng" là túi; "xí nữa" là chút nữa; "y nguy" là y nguyên; "răng" là sao, làm sao... Sực nhớ, nhà thơ Dũng Hiệp của đất Quảng đã từng viết mấy câu thơ như vầy:

Tiếng Quảng Nam mình nói rất thô
Vần "ao" thì lại nói vần "ô"
Chơi xuân khách Mỹ trên hè phố
Dắt chó ngao mà nói chó ngô!

Đấy! Tiếng Quảng Nam thô kệch vậy, như "cháo" thì phát âm thành "chố", "gạo" thành "gộ"... Nhưng bằng sự thông minh, tài trí của mình, người ta đã vận dụng để giáng một đòn độc chiêu. Bốn câu thơ trên được viết vào thời 1963. "Dắt chó ngao mà nói chó ngô". Ngô nào vậy? Thật thâm trầm và sâu sắc biết chừng nào.
Thật ra, viết được như thế không khó, nhưng nghĩ ra cách phổ biến công khai nơi chốn đông người là không dễ dàng chút nào. Vậy người Quảng Nam đã tài trí ra sao? Lần nọ đêm diễn hát bội đông nghìn nghịt người đến xem, đến đoạn cao trào nhất, thiên hạ vỗ tay vang trời bỗng trên sân khấu xuất hiện hai vai hề Ất và Giáp. Giáp thao thao bất tuyệt mọi chuyện, còn Ất lại ngậm như hến, cậy miệng cũng không nói nửa lời. Không chỉ Giáp mà khán giả cũng ngạc nhiên. Bực mình, Giáp quát:

- Ất! Mày câm rồi sao?
- Tao không câm.
- Không câm sao nẫy giờ mày cứ câm như thóc?

Ất mếu mó đáp:

- Bởi tao là… người Quảng Nam!

Trời đất sao lạ vậy? Nghe Ất nói thế ai nấy cũng đều thắc mắc tợn và chăm chú nghe tiếp câu chuyện đang diễn ra. Giáp nói:
- Thôi đi cha nội. Người ta thường nói "Quảng Nam hay cãi", chứ có như mày đâu! Mày cứ "ngậm miệng ăn tiền"!
Tỉnh bơ như không, Ất vẫn rầu rầu nét mặt, chậm rãi từng lời:
- Anh Giáp ơi! Người Quảng Nam hay phát âm sai, nói chớt nên người ta làm thơ châm biếm đó!
- Tưởng gì! Chế giễu giọng Quảng Nam thì tao nghe rồi, nhưng thơ châm biếm thì chưa. Mày đọc cho tao nghe thử coi!
Chỉ chờ có thế. Ất há mồm ra được rành rọt từng chữ. Xong, Giáp gật gù bình:
- Đúng! "cháo gạo" thì thành "chố gộ", "ao" đọc thành "ô" là đúng giọng Quảng Nam rồi. Hay! Hay! Mày hãy đọc lai cho bà con thưởng thức. Nhưng thôi, mày hãy để tao ngâm cho mùi mẫn.
Thế là bài thơ này lại vang lên công khai một lần nữa. Ai nấy cũng vỗ tay khoái chí. Cho dù lúc ấy, bọn mật vụ có len lỏi đâu đó cũng không thể bắt bẻ gì được.
Tiếng Quảng Nam là vậy. Người Quảng Nam là vậy. Cho dù bây giờ không ít từ nếu muốn hiểu cần phải có… "phiên dịch", nhưng tôi trộm nghĩ rằng, đã có một thời gian dài, rất dài giọng nói Quảng Nam được xem là "chuẩn"!
Nghe cứ như đùa!
Suy nghĩ trên không phải không có cơ sở. Ngược dòng lịch sử, ta thấy Quảng Nam có thời kỳ còn được doanh nhân nước ngoài khi giao thương buôn bán ở Đàng Trong gọi "Quảng Nam quốc". Lý do của sự ra đời của tên gọi ta đã biết, không nhắc lại. Thế thì khi giao thiệp, người nước ngoài ắt phải bắt chước theo giọng nói, cách nói của cư dân địa phương. Đây là một lẽ hiển nhiên. Một sự tác động hoàn toàn toàn lô-gich, chứ không phải là sự suy luận lúc “trà dư tửu hậu”. Nay ta cứ nghe người Nga nói tiếng Việt thì rõ, hầu hết đều phát âm theo giọng Hà Nội, bởi họ được học với người Hà Nội. Đơn giản thế thôi. Với lập luận này, tôi ngờ rằng, ngay cả các chúa Nguyễn khi đóng dinh trấn tại Quảng Nam thì giọng nói cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi phong thổ, khí hậu… nơi đây. Dấu ấn của giọng Quảng không chỉ có trong thời chúa Nguyễn, mà đến cuối triều Nguyễn nó vẫn còn giữ một vị trí quan trọng. Theo PGS Vương Hữu Lễ (Khoa Văn Đại học Khoa học Huế): "Ngay trong thời kỳ cuối của triều Nguyễn, người ta còn thấy trong những tuyên cáo hay xướng lễ của triều đình, tiếng Huế phải pha thêm giọng Quảng thì mới thích dụng” (Kỷ yếu hội thảo Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng - Sở VHTTQN ấn hành năm 2001, tr. 504). Thông tin này đáng tin cậy khi mà ta biết thêm rằng, chính vua Tự Đức từng khẳng định: "Bình văn, xướng văn tất phải dùng tiếng Quảng Nam, được xem là trung thanh".

(Trích sách "Người Quảng Nam", NXB Đà Nẵng)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

letam

Nói về ngôn ngữ vùng miền. Mỗi lần xem phim bối cảnh là phía Nam mà lời thoại của nhân vật (nói tiếng Nam) mà cứ ANH ẤY với CHỊ ẤY , rồi CÔ ẤY... là LT thấy hết muốn xem vì thấy giả dối sao ấy. Lẽ ra phải là ẢNH, CHỈ và CỔ... thì thật hơn.
Tiếng miền Bắc khi nói nhanh vẫn có thể ANH ẤY thành ÁNH, CHỊ ẤY thành CHÍ, CÔ ẤY thành cố, ÔNG ẤY thành ỐNG. Nhưng trong ngôn ngữ viết không thấy ai dùng như tiếng miền Nam.
 Vui là chính - Chính là vui!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 3 trang (24 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối