Đăng bởi hongha83 vào 13/10/2018 20:23
Мне
рассказывал
тихий еврей,
Павел Ильич Лавут:
“Только что
вышел я
из дверей,
вижу -
они плывут...”
Бегут
по Севастополю
к дымящим пароходам.
За день
подметок стопали,
как за год похода.
На рейде
транспорты
и транспорточки,
драки,
крики,
ругня,
мотня, -
бегут
добровольцы,
задрав порточки, -
чистая публика
и солдатня.
У кого -
канарейка,
у кого -
роялина,
кто со шкафом,
кто
с утюгом.
Кадеты -
на что уж
люди лояльные -
толкались локтями,
крыли матюгом.
Забыли приличие,
бросили моду,
кто -
без юбки,
а кто -
без носков.
Бьет
мужчина
даму
в морду,
солдат
полковника
сбивает с мостков.
Наши наседали,
крыли по трапам.,
кашей
грузился
военный ешелон.
Хлопнув
дверью,
сухой, как рапорт,
из штаба
опустевшего
вышел он.
Глядя
на ноги,
шагом
резким
шел
Врангель
в черной черкеске.
Город бросили.
На молу -
голо.
Лодка
шестивесельная
стоит
у мола.
И над белым тленом,
как от пули падающий,
на оба
колена
упал главнокомандующий.
Трижды
землю
поцеловавши,
трижды
город
перекрестил.
Под пули
в лодку прыгнул...
- Ваше
превосходительство,
грести?-
- Грести!-
Убрали весло.
Мотор
заторкал.
Пошла
весело
к “Алмазу”
моторка.
Пулей
пролетела
штандартная яхта.
А в транспортах-галошинах
далеко,
сзади,
тащились
оторванные
от станка и пахот,
узлов
полтораста
накручивая за день.
От родины
в лапы турецкой полиции,
к туркам в дыру,
в Дарданеллы узкие,
плыли
завтрашние галлиполийцы,
плыли
вчерашние русские.
Впе-
реди
година на године.
Каждого
трясись,
который в каске.
Будешь
доить
коров в Аргентине,
будешь
мереть
по ямам африканским.
Чужие
волны
качали транспорты,
флаги
с полумесяцем
бросались в очи,
и с транспортов
за яхтой
гналось-
“Аспиды,
сперли казну
и удрали, сволочи”.
Уже
экипажам
оберегаться
пули
шальной
надо.
Два
миноносца-американца
стояли
на рейде
рядом.
Адмирал
трубой обвел
стреляющих
гор
край:
- Ол
райт. -
И ушли
в хвосте отступающих свор, -
орудия на город,
курс на Босфор.
В духовках солнца
горы
жаркое.
Воздух
цветы рассиропили.
Наши
с песней
идут от Джанкоя,
сыпятся
с Симферополя.
Перебивая
пуль разговор.
знаменами
бой
овевая,
с красными
вместе
спускается с гор
песня
боевая.
Не гнулась,
когда
пулеметом крошило,
вставала,
бессташная,
в дожде-свинце:
“И с нами
Ворошилов,
первый красный офицер”.
Слушают
пушки,
морские ведьмы,
у-
ле-
петывая
во винты со все,
как сыпется
с гор
-”готовы умереть мы
за Эс Эс Эс Эр!” -
Начштаба
морщит лоб.
Пальцы
корявой руки
буквы
непослушные гнут:
“Врангель
оп-
раки-
нут
в море.
Пленных нет”.
Покамест -
точка
и телеграмме
и войне.
Вспомнили -
недопахано,
недожато у кого,
у кого
доменные
топки да зори.
И пошли,
отирая пот рукавом,
расставив
на вышках
дозоры.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi hongha83 ngày 13/10/2018 20:23
Paven ilich Lavut
một người Do-thái vốn lì xì
có một lần anh kể tôi nghe:
“Vừa
bước chân
ra cửa
thấy tàu chúng bỏ đi...”
Chúng ùa về
Xêbatxtôpôn
đến những con tàu nhả khói đen
Trong một ngày
chúng cuốc mòn giày dép
bằng hành quân liên tiếp cả năm
Trên bến
lúc nhúc
tàu chuyển quân
chửi bới nhau
đấm đá
chạy rối rít
om sòm
Quân tình nguyện
vén phứa quần
bỏ chạy
lính tráng vậy
thượng lưu cũng vậy
Bàn là
lồng chim
chúng khệ nệ xách ôm
còng lưng khuôn tủ
kéo xềnh xệch dương cầm
Các vị kađê
vốn trung hậu, hảo tâm
giờ cũng huých
cũng chửi nhau thô tục
Lịch sự thời trang
của các bà đâu mất
bà
quên mặc váy
bà
xỏ giày chân không
Một phu nhân
bị một gã đàn ông
tát bốp
một vị quan năm
bị lính hất
trượt cầu
Tấn công ào ạt
ta bắn rát cầu tàu
chúng ùa xuống
chuyến cuối cùng nát bấy!
Sập
cửa lại
y ra khỏi
nhà tham mưu
trống trải
người đét khô
như tiếng hô báo cáo nhà binh
Vrăngghen
đi
khoác chiếc áo choàng đen
bước vội vã
mặt cúi gằm
nhìn đất
Thành phố này bỏ lại
quân rút hết
Đập chắn sóng
trụi trơ
Con thuyền
sáu chèo
bên đập
đứng chờ
Và cám cảnh, ôi bạch quân tan rã
tướng công tổng chỉ huy
như trúng tên gục ngã
khuỵu hai gối xuống
y rạp người quỳ
Ba lần
y
hôn đất
yểm thành phố
ba lần làm dấu thập
Đạn réo bên tai
y hấp tấp xuống thuyền...
- Bẩm quan lớn
tướng công
cho chạy?
- Chạy!
Tháo mái chèo
Và động cơ nổ máy
Chiếc xuồng con
nhộn nhịp
đi đến chiếc “Kim cương”
Du thuyền chỉ huy
như viên đạn
vút nhanh
Lẽo đẽo
tít đằng sau
những tàu vận chuyển
ì ạch
mươi lăm dặm
một ngày
Tàu bốc họ xa quê hương tổ quốc
eo biển Đacđanen trót lọt
liền rơi vào tay cảnh sát Thổ-nhĩ-kỳ
nông nỗi này đâu biết lúc ra đi
Mới hôm qua họ là người Nga
số phận ngày mai:
dân Galipôlí
Trước mắt họ
những năm dài vận bĩ
Rồi gặp ai
đội “cát”
cũng sợ run
Rồi đi vắt sữa
tận Acgiăngtin
hoặc chết rấp
bên Phi châu, hố thẳm
Sóng biển lạ
lắc lư tàu chuyển vận
cờ liềm trăng
đã hiển hiện rành rành
và tiếng chửi văng theo
chiếc du thuyền
“Loài rắn độc
bay cuỗm tiền ngân khố
rồi bay chuồn, một lũ đê hèn!”
Bến đập
phóng lôi Mỹ
hai chiếc dập dềnh
Chừng
chúng lo
tránh làn đạn lạc
Viên đô đốc
đưa ống nhòm quan sát
vùng núi đồi
trong khói lửa mịt mù:
- On
rai-t
Và hướng về Botxpho
chúng bỏ chạy
súng chĩa vào
thành phố
Trong lò lửa mặt trời
núi đồi
chín rữa
Lịm ngọt không trung
ngào ngạt cỏ hoa thơm
Từ Giăngcôi
từ Ximphêrapôn
quân ta đổ xuống, vang tiếng hát
Bài ca chiến đấu
cùng Hồng quân ồ ạt
xuống chân đồi
xen tiếng đạn hàn huyên
phất cờ bay
giục xông thẳng
trận tiền
Liên thanh bắn rát
bài ca không khuất phục
giữa trận mưa chì
vẫn vùng lên
bất khuất:
“Cùng chúng ta
Vôrôsilôp
người sĩ quan số một của hồng quân”
Như đàn quỷ dữ
đại bác
rống lên
chúng bỏ chạy
quay tít mù
chân vịt
vang dội núi đồi
tiếng quân ta thét:
- “Sẵn sàng hy sinh
vì Xô viết liên bang!”
Trán
trưởng ban tham mưu
nhăn nhăn
Kỳ cà kỳ cục
tay xù xì
nắn chữ:
“Tống
Vrăngghen
ra biển
Tù binh không có”
Thế là
chấm hết
điện tín
chiến tranh
Sực nhớ lại
đám ruộng nhà cày dở
không biết giờ đàn bò sữa ai chăn
muốn thấy lại - hào quang và miệng lửa
chiếc lò cao xa cách bao năm
Và khắp chòi cao
bố trí xong tuần tiễu
họ lại bước đi
quệt mồ hôi
tay áo