Đăng bởi Vanachi vào 07/03/2006 09:17, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 21/03/2006 09:19

Mặt trời càng lên tỏ,
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo đầu ngọn cỏ
Sương lại càng long lanh.
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao cùng hót
Tiếng chim nghe thánh thót
Văng vẳng khắp cánh đồng.
Đứng chống cuốc em trông
Em thấy lòng khấp khởi.
Bởi vì em nhớ lại
Một buổi sớm mai ri
Anh tình nguyện ra đi
Chiền chiện cao cùng hót
Lúa cũng vừa sẫm hột
Em tiễn anh lên đường.
Chiếc xắc mây anh mang,
Em nách mo cơm nếp
Lúa níu anh trật dép
Anh cúi sửa vội vàng
Vượt cánh đồng tắt ngang
Đến bờ ni anh bảo:
- “Ruộng mình quên cày xáo
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt”.
Xa xa nghe tiếng hát
Anh thấy rộn trong lòng
Sắp đến chỗ người dông
Anh bảo em ngoái lại.
Cam ba lần có trái
Bưởi ba lần ra hoa
Anh bước chân đi ra
Từ ngày đầu phòng ngự.
Bước qua kỳ cầm cự
Anh có gửi lời về
Cầm thư anh mân mê
Bụng em giừ phấp phới.
Anh đang mùa thắng lợi
Lúa em cũng chín rồi
Lúa tốt lắm anh ơi
Giải thi đua em giật.

Xoè bàn tay bấm đốt
Tính cũng bốn năm ròng
Ai cũng bảo không trông
Riêng em thì em nhớ!
Chuối đầu vườn đã lổ
Cam đầu ngõ đã vàng
Em nhớ ruộng nhớ vườn
Không nhớ anh răng được!

Mùa sau kề mùa trước
Em vác cuốc thăm đồng
Lúa sây hạt nặng bông
Thấy vui vẻ trong lòng
Em mong ngày chiến thắng.


1-1-1950

Bài thơ này được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dù mang giọng thơ năm chữ và đôi chỗ gợi nhớ nhịp điệu hát dặm Nghệ Tĩnh, nhưng đã đầy đủ cốt cách một thi phẩm mới mẻ của nền thơ cách mạng đang thời trứng nước và được phổ biến rộng rãi khắp cả đất nước, đoạt nhiều giải thưởng trong và ngoài nước, trong đó có giải thưởng thơ tại Liên hoan thanh niên thế giới ở Buy-ca-rét năm 1953, được đưa vào sách giáo khoa trung học.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Vài nét về nhà thơ Trần Hữu Thung và bài thơ “Thăm lúa”

Trần Hữu Thung là tên thật. Ông sinh (1923) và mất (2000) tại quê gốc Diễn Châu, Nghệ An. Tham gia Việt Minh từ 1944. Trong kháng chiến chống Pháp là cán sự văn hoá, cán bộ tuyên truyền. Làm thơ, viết ca dao nhiều từ dạo đó. Trần Hữu Thung có phong cách một nhà thơ dân gian. Thơ đối với ông, những ngày đầu cầm bút, chỉ là phương tiện công tác, ông viết để ca ngợi chiến công, phổ biến chủ trương chính sách, phản ánh đời sống người nông dân kháng chiến. Lời lẽ mộc mạc, tình cảm thật thà, phổ cập. Trần Hữu Thung không quan tâm lắm đến cái mà bây giờ ta gọi là trữ tình riêng tư. Ông không nói chuyện mình. Không vui buồn chuyện riêng. Đúng hơn, lòng ông vui buồn cùng vận nước, tình dân. Năm 1944, ông viết bài thơ dài Việt Nam ly khúc, theo thể song thất lục bát, mang hơi hướng thơ yêu nước của phong trào Đông Du, cổ động lòng yêu nước, thương dân, ý chí cách mạng. Thời kháng chiến chống Pháp, những bài thơ Cò trắng phát thanh, Hai Tộ hò khoan, Nhớ sông Lô... chưa thể coi là thơ, nhưng các văn phẩm ấy lại có sức phổ biến rộng, phù hợp với năng lực tiếp nhận của vùng quê kháng chiến Nghệ An, Thanh Hoá, những năm cuối 40, đầu 50. Đến bài Thăm lúa, viết 1- 1- 1950, mới là bài thơ khai sinh nhà thơ Trần Hữu Thung. Thăm lúa mang giọng thơ năm chữ, đôi chỗ gợi nhớ nhịp điệu hát dặm Nghệ An, nhưng đã đầy đủ cốt cách một thi phẩm mới mẻ của nền thơ cách mạng đang thời trứng nước:

Xoè bàn tay bấm đốt
Tính đã bốn năm ròng
Người ta bảo không trông
Ai cũng nhủ đừng mong
Riêng em thì em nhớ
Tình cảm trong trẻo, đặc biệt chất cảm xúc mới, thật, khoẻ khoắn. Không gian bay của con chim chiền chiện vẽ ra khoảng rộng xa của hồn người kháng chiến, bài thơ tình yêu thôn dã ấy đã thành dấu tích tâm hồn của kháng chiến chín năm. Hiện thực đời sống kết tinh thành tâm trạng nhân vật. Để từ tâm trạng người đọc luận ra đời sống. Đấy là chỗ tinh vi của thơ. Trần Hữu Thung cứ hồn nhiên mà đạt tới bút pháp tinh vi ấy (theo Võ Văn Trực, Trần Hữu Thung cao hứng viết bài thơ này trong buổi dự một đám cưới ở Đô Lương). Bài thơ liền một mạch cảm xúc sáng và trong. Hình ảnh chân thật như vốn có của đời sống nhưng rất nên thơ, nên thơ do cách nhìn của người trong cuộc, cách nhìn ấy do một tấm lòng đang hạnh phúc, nâng niu mọi nét đời...

Mười bốn năm sau, năm 1964, năm mở đầu miền Bắc đánh Mỹ, bài thơ Anh vẫn hành quân như một điệp khúc của Thăm lúa. Cũng thể thơ năm chữ. Cũng đề tài tình yêu xa cách. Cũng cảm xúc riêng chung hài hoà, trong sáng, đầy phẩm chất lý tưởng. Thơ Trần Hữu Thung giàu lý tưởng và mơ ước nhưng không lên gân nặng nề tư biện. Chất lý tưởng ấy rất giống với lòng mơ ước trong các truyện cổ tích: thiện thắng, ác thua, ở hiền gặp lành... Lý tưởng nhưng ấm áp đời thường. Chính cuộc sống, cách sống của tác giả tạo nên chất thơ ấy, chất tâm hồn ấy. Đã từng tham gia công tác ở các cơ quan chỉ đạo văn học nghệ thuật ở trung ương, từng có công tích cách mạng lẫn văn chương (giải thưởng thơ tại Liên hoan thanh niên thế giới ở Buy-ca-rét 1953), nhưng lại xin trở về quê nhà, sống như một nông dân, thanh bần, vất vả. Nghệ thuật thơ có thể chưa cao, nhưng những điều gan ruột bộc bạch thì lại hay cảm động lòng người. Bạn đọc, bạn viết yêu thơ Trần Hữu Thung cũng có lý do ấy.

Từ những năm 80 rồi 90, Trần Hữu Thung có ý hướng tới nhiều hơn những cảm xúc trữ tình cá thể: Thơ những dòng viết dở/ Đời nắng mưa vẫn còn. Cảm xúc có trầm xuống, lời thơ cũng mượt hơn, nhưng bao giờ cũng chất phác chân tình. Em ơi phải thú thực rằng/ Quên nhau khó lắm chi bằng nhớ nhau. Hoặc Đã buồn cái chuyện riêng ta/ Lại thêm lắm chuyện từ xa ập vê ö. Chính cái nỗi lắm chuyện từ xa ập vê ö ấy sẽ tạo cảm xúc cho thơ, tạo sự phong phú cả đề tài, cảm xúc lẫn bút pháp của Trần Hữu Thung. Bài thơ Chợ Tết sau chân núi như một thành công muộn mằn của đời thơ ông. Bài này ông dùng thơ bảy chữ cổ điển. Trần Hữu Thung thường quen dùng lục bát và ngũ ngôn gợi ca dao và hát dặm. Bài này hơi thơ cổ điển tạo những cảm xúc dư ba, lời hết mà tình chưa hết. Đây là nét mới của Trần Hữu Thung:
Tay nắm tay nhau tình chẳng ngỏ
Để sáng sương mù năm ấy trôi.
Bên cạnh thơ, Trần Hữu Thung còn viết văn xuôi, chủ yếu là những ghi chép, giữ lại những năm tháng, những kỷ niệm của quê hương đánh giặc. Đáng trân trọng là những công trình sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian của vùng quê Nghệ Tĩnh: Vè, Dòng sữa quê hương, Sức biểu hiện của dân ca Nghệ Tĩnh... Ông còn soạn cả Từ điển tiếng Nghê û. Những chi tiết ấy càng cho thấy thêm hồn thơ ông dấy lên chính từ quê hương xứ sở. Cảm và nghĩ trong thơ ông bắt nguồn từ cuộc sống vật lộn nhỡn tiền của bà con làng xóm quanh ông. Hơn hai mươi năm cầm bút, là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam (1957) nhưng trước sau ông vẫn rõ là nhà thơ dân gian, với tất cả phẩm chất cao quý của từ này.


Hà Nội, 28-8-2001
Vũ Quần Phương
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
53.60
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Những điều chưa biết về bài thơ “Thăm lúa”

Nhân 80 năm sinh (1923 -2003) và 4 năm ngày mất (1999-2003) Trần Hữu Thung - nhà thơ nổi tiếng với bài thơ Thăm lúa, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật và Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An đã tổ chức Lễ tưởng niệm và toạ đàm khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Bên cạnh những bài tham luận về sự nghiệp thơ ca của Trần Hữu Thung, nhiều người còn nhắc lại những kỷ niệm, những tình cảm anh em, đồng chí với nhà thơ. HNMCN xin trích giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Nghĩa Nguyên, người đã có nhiều gắn bó với Trần Hữu Thung từ thuở ấu thơ và trích một phần bức thư của nhà thơ Xuân Diệu gửi cho Trần Hữu Thung năm 1954.

Từ chú bé có tài bắt chim

Có 3 thú chơi mà Trần Hữu Thung mê nhất từ hồi nhỏ, đó là đánh bắt cá, bẫy chim, đấu vật. Hễ xách nơm, vác vó, cắp nỏ đi là có cá, có chim mang về. Bạn bè bảo Thung nghe được cá bàn chuyện với nhau dưới nước, chim nói chuyện với nhau trên cây. Thật ra, Thung chỉ nhìn hướng gió mà đoán đoàn cá đi ăn, nhìn ráng, nhìn mây mà biết chim đàn về, đoán nơi chúng sa đậu.

Đến nay, người già trong làng còn ngồi kể cho nhau nghe chuyện Thung bắt chim bồ nông. Chuyện rằng lụt tháng Tám, làng Trung Phường (thuộc xã Diễn Minh, Diễn Châu, Nghệ An - quê Trần Hữu Thung) như một ốc đảo giữa biển nước mênh mông. Có lần chim bồ nông về, sa xuống giữa rục sâu, đứng chờ có tôm bơi đến là mổ ăn. Lúc bấy giờ, sử dụng súng bị cấm, dùng nỏ bắn cũng chẳng đến nơi, bơi thuyền thì sợ chim bay mất. Dân bẫy chim ngồi ở cổng làng thèm tiếc, ấy thế mà Trần Hữu Thung đã lập mưu bắt được. Anh lấy dây cột rạ thành chụm trùm lên đầu rồi lội xuống rục nước tới tận cổ, lần hồi từng bước chân trông như một chụm rạ bị nước cuốn trôi. Chim bồ nông cũng đứng chờ rạ đến vì trong rạ thường có tôm cá vướng vào. Thế là Thung luồn 2 tay ra, túm lấy 2 cẳng của chim bồ nông, nhận xuống nước. Trước cổng làng, người đứng lên reo hò vì trí thông minh và sự khéo léo của Trần Hữu Thung.

Đến chủ tịch xã 22 tuổi

Bắt đầu làm chủ tịch xã từ năm 1945, năm 1948, Trần Hữu Thung xin nghỉ để đi học lớp văn hoá kháng chiến của Liên khu 4 ở Thanh Hoá. Chính từ đây đánh dấu con đường thơ của Trần Hữu Thung. Nhưng lý do của việc “từ chức” này thì ít người biết.

Vào thời gian đó, người vợ đầu của Trần Hữu Thung sinh con vào đêm giao thừa và mất ngay trên bàn đẻ. Đám tang vào đúng sáng mồng một tết. Đứa con sống nhờ sữa góp cũng mất sau đó 1 tháng. Thung đau khổ tột cùng, muốn thay đổi môi trường sống để nguôi ngoai đi nỗi đau mất vợ, mất con...

Và thi sĩ của đồng quê

Trong bức thư đề ngày 3-2-1954 gửi Trần Hữu Thung, nhà thơ Xuân Diệu viết: “Mình nghĩ nhiều đến Thung, đến các tác phẩm của Thung. Mình thấy Thung có đủ bản lĩnh để làm một thi sĩ chắc chắn về lập trường, tư tưởng, về sự chịu khó hy sinh các sáng tác của mình vì nhiệm vụ, về tinh thần trách nhiệm của Thung, về khả năng hiểu biết của Thung về thơ, đào sâu trong ca dao, trong thơ cổ điển kiêm thêm một sự chí thú nhà nghề làm đi làm lại, có lương tâm nhà nghề, cái đó không phải là khó, nhất là từ khi có thủ đô. Các thi tài, thi kiệt, văn sĩ về thủ đô với một cái nóng ruột như muốn ôm, muốn hốt lấy danh vọng cho thật nhiều, thật chóng... Cái định đoạt cho thơ Thung không phải là thủ đô, là tờ báo, là ban giám khảo hay các giải thưởng mà đó là trang giấy trắng mực đen mà Thung cặm cụi đặt bài thơ của mình lên chữa đi, chữa lại, là quần chúng tán thưởng Thung. Con đường thơ là con đường chân thật, ở trong ruột rút ra. Theo mình, trong lớp thi sĩ mới từ sau Cách mạng tháng Tám, Thung đã có chỗ hẳn hoi, duy nhất. Nên luôn cố gắng, chân tâm làm thi sĩ, Thung sẽ cống hiến được một cái gì đó cho thơ VN...”.


28/09/2003 08:02
Trần Linh
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
104.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cùng nghe lại giọng ngâm thơ bài thơ Thăm Lúa

Thăm lúa - Trần Hữu Thung

33.67
Trả lời