Có một cô lái,
Nuôi một thầy đồ.

Quần áo rách rưới,
Ăn uống xô bồ.

Cơm hai buổi cá kho, rau muống,
Quà một chiều khoai lang, lúa ngô.

Sao dám khinh mình? Thầy đâu thầy vậy!
Chẳng biết trọng đạo, cô lốc cô lô.

Thầy đồ thầy đạc,
Dạy học dạy hành.

Vài quyển sách nát,
Dăm thằng trẻ ranh.

Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía,
Võ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh.

Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát,
Cho nên thầy lẩn quẩn loanh quanh.

Trông thầy:
Con người phong nhã,
Ở chốn thị thành.

Râu rậm như chổi,
Đầu to tày giành.

Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.

Nhà lính tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xường, mặc rặt những quần vân, áo xuyến,
Đất lề quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành.

Bạn thầy là ông Băng, ông Nghè, ông Hoàng, ông Thám,
Con thầy là tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành.

Mẹ muốn con hay, rắp một nỗi biển cờ mũ áo,
Chủ rước thầy học, tính đủ tiền chè rượu cơm canh.

Chọn ngày lễ bái,
Mở cửa tập tành.

Thầy ngồi chễm chệ,
Trò đứng chung quanh.

Dạy câu Kiều lẩy,
Dạy khúc lý kinh.

Dạy những khi xuống ngựa lên xe, đứng ngồi phải phép,
Dạy những lúc cao lâu chiếu hát, ăn nói cho sành!


Bài phú này sử dụng hai vần khác nhau, có sách chép thành hai bài riêng, có sách lại chép chung là một bài.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]