Thơ » Thuỵ Điển » Tomas Tranströmer » 17 bài thơ » Phần IV
Đăng bởi hongha83 vào 12/08/2015 17:50
Den vita skaran växte: måsar trutar
i dräkt av segelduk från döda skepp
men fläckad av förbjudna kusters rökar.
Alarm alarm kring avfall från en skuta!
De trängdes tätt och bildade ett flaggspel
som signalerade ”ett byte här”.
Och måsar styrde över vattenvidder
med blåa åkrar skridande i skummet.
Tvärs över gick en fosforväg mot solen.
Men i sin forntid färdas Väinämöinen
på hansvidd gnistrande i forntidsljus.
Han rider. Hästens hovar blir ej våta.
Och bakom honom: grön hans sångers skog.
Med eken i ett tusenårigt språng.
Den stora kvarnen drivs av fågelsång.
Och varje träd är fånge i sitt brus.
Med stora kottar glimmande i månljus
när utmarkstallen tändes som en fyr.
Då reser sig Den Andre med sin galdr
och pilen flyr vidöppet seende
med sång i fjärden som ett fågelsträck.
En död sekund när hästen styvnar tvärt
och remnar över vattenlinjen som
ett blåmoln under åskans känselspröt.
Och Väinämöinen störtar tungt i havet
(ett brandsegel som väderstrecken spänner).
Alarm alarm bland måsarna vid fallet!
På samma sätt med den som utan ängslan
förhäxad står mitt i sin lyckas tavla
med elva sädeskärvar bugande.
Förtröstans alptopp nynnade i etern
tretusen meter högt där molnen seglar
ikapp. Den stinna brugden vältrar sig
i ljudlöst gapskratt under havets yta.
(Död och förnyelse när vågen kommer.)
Och vinden cyklar genom löven fridfullt.
Då trummar åskan dovt mot horisonten
(som buffelhjorden flyktar i sin rök).
En skuggas näve knyter sig i trädet
och störtar honom nu som står förhäxad
mitt i sin lyckas bild där kvällens himmel
syns glöda bak en vildsvinsmask av skyar.
Hans dubbelgångare blev avundsam
och träffar hemligt avtal med hans kvinna.
Och skuggan samlar sig och blir en flodvåg
en flodvåg mörk med måsar ridande.
Och babordshjärtat fräser i en bränning.
Död och förnyelse när vågen kommer.
Den vita skaran växte: måsar trutar
i dräkt av segelduk från döda skepp
men fläckad av förbjudna kusters rökar.
Gråtruten: en harpun med sammetsrygg.
I närbild som ett översnöat skrov
med dolda pulsar blixtrande i takt.
Hans flygarnerver i balans. Han svävar.
Han drömmer fotlöst hängande i vinden
sin jägardröm med näbbens skarpa skott
Han dalar glupskutslagen ner mot ytan
och kränger sig kring rovet som en strumpa
med några ryck. Och lyfter som en ande.
(Förnyelsen är krafters sammanhang
mer gåtfulla än ålens vandringar.
Osynligt träd i blomning. Och liksom
en gråsäl i sin undervattensström
går upp till vattenytan, drar ett andetag
och dyker – alltjämt sovande – till bottnen
så har nu Slumraren inom mig hemligt
förenat sig med det och återvänt
medan jag stod med blicken fäst på annat.)
Och dieselmotorn dunkande i svärmen
förbi det mörka skäret. fågelskrevan
där hungern blommade med töjda gap.
Ännu vid mörkrets inbrott hördes de:
en ofullgångenhetsmusik som ur
orkesterdiket innan spelet börjat.
Men på forntidshav drev Väinämöinen
ruskad i krabbsjöns vante eller utsträckt
i stiltjens spegelvärld där fåglarna
förstorades. Och ur ett spillfrö, långt
från land vid havets ände växande
ur vågor, ur en dimbank sköt det upp:
ett väldigt träd med fjällig stam och blad
helt genomskinliga och bakom dem
avlägsna solars fyllda vita segel
gled fram i trance. Och redan lyfter örnen.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi hongha83 ngày 11/08/2015 17:50
Đoàn chim trắng lớn lên dần: hải âu và mòng biển
trong bộ áo vải các con tàu chết
lấm bụi của các bến biển cấm vào
Báo động! Báo động quanh đám rác thải từ các chuyến tàu ven bờ!
Chúng nó dịch laaij gần nhau để chơi trò báo hiệu
để có thể cho nhau biết "chiếm lấy được chỗ này"
Hải âu lượn trên trăm ngàn vũng nước
tại đó nhiều rãnh cày đẫm màu xanh chạy thẳng giữa các con sóng bạc
Một con đường lân tinh chạy chéo vào mặt trời
Nhưng từ tiền sử, thần Vainamoinen tiến bước trên đại dương bao la
chói chang đuốc sáng của nghìn xưa
Trên lưng ngựa. Các móng chân con vật chẳng bao giờ bị ngấm nước
Sau ngài: bát ngát rừng xanh của khúc ca ngâm
Nơi đó cây sồi vươn bước nhảy nghìn thời
Chiếc cối xay gió lớn được chuyển động nhờ ca khúc các loài chim
Và cây bị cầm tù trong tiếng rì rào của nó
Các tổ của chúng rạng lên trong ánh trăng
khi hàng thông các đất xa sáng lên như một ngọn đèn biển
Rồi Người Kia bỗng đứng thẳng dậy trong câu niệm thần chú
và mũi tên vụt bay, cặp mắt mở to
vừa hát ca, trong bến cảng, như những con chim di trú
Một giây phút chết khi con ngựa chồm lên
và đập mình vào trên đường con nước
như một đám mây xanh dưới dây trời xúc giác của bão tố
Và Vainamoinen rơi tõm vào biển
(chiếc vải cứu hộ do bốn phương trời trải ra)
Báo động! Báo động cho chim hải âu vào giờ giấc lâm nguy!
Giống như người không hề biết sợ cái gì
bị mê hồn giữa cảnh đời hạnh phúc
sụp quì lạy với mười thưng lúa mì
Các đỉnh non cao của hi vọng ngân nga trong thanh khiết
ở ba nghìn thước bề cao, nơi mà mây xa bày lên một cuộc đua thuyền
Con cá nhám góc, mủm mỉm
Nó mủm mỉm đầm mình trong tiếng cười yên lặng dưới mặt biển
(Cái chết và sự hồi sinh, khi mà ngọn sóng ùa đến)
Gió thì yên lành quay vội qua tán lá
Cơn bão rung trống lặng tờ ở tận chân trời
(tựa một đàn trâu chạy trốn trong đám bụi)
Nắm đấm của bóng tối lao xuống chòm cây
Nó bỗng lật đổ cái cây đang đứng đam mê
giữa cảnh đời hạnh phúc khi nó thấy
hoàng hôn trở nên đỏ tươi dưới mặt nạ lợn rừng của các đám mây
Kẻ giống hệt Người thì bây giờ ganh tị
và kín đáo đồng tình với vợ
Bóng tối dồn về ngăn tầng dưới
Cái ngăn tầng dưới tối đen lũ chim hải âu nhảy vọt
Trái tim ở bên mạn trái thuyền khoá miệng lại giữa khoảnh đá ngầm cản sóng
Cái chết và sự hồi sinh, khi mà ngọn sóng ùa đến
Đàn chim trắng lớn lên dần: hải âu và mòng biển
trong bộ áo vải các con tàu chết
lấm bụi của các bến biển cấm vào
Mòng biển màu tro: một cây mác sắt lưng bọc nhung
Nhìn gần, nó là một vỏ trứng gà bọc tuyết
đường mạch kín thầm toả ánh nhịp nhàng
Dây thần kinh phi công của nó cân bằng tuyệt diệu
Nó lượn. Nó mơ, không cần dựa vào dây chằng treo trong gió
một giấc mơ của kẻ đi săn về các lần mổ cắn chết mồi
Dìu dịu, hạ đôi cánh tham ăn xuống phía biển
quấn lấy con mồi như một chiếc tất ngắn
với một chút rung lay. Đoạn bay lên tựa một thần linh
(Sự phục sinh là một mối tương quan các sức mạnh
chúng bí hiểm hơn việc con chạch lần bò
Cây nở hoa cũng khó thấy
Cũng ví bằng con chó biển lông xám giữa giấc ngủ đáy biển khơi của nó
trườn lên trên mặt nước, tiếp tục thở lại và ngụp lại
vừa ngủ say trong đáy thẳm
Người-đang-ngủ trong tôi bí mật giao kết
với quan hệ nhân quả này đã về trở lại
trong khi cặp mắt tôi còn chăm chăm nhìn vào một vật khác)
Cái động cơ đi-ê-den bổ mạnh vào đàn chim
theo chiều dài các đá ngầm tăm tối, theo chỗ rạn nứt của bầy chim
lúc cái đói đã nở hoa bằng những hốc mòn há hốc
Người ta còn nghe tiếng chim kêu khi đêm xuống
một điệu nhạc phát sinh trước thời hạn và dường như bốc lên
từ hố ngồi của dàn nhạc khi buổi hoà nhạc chưa bắt đầu
Nhưng trên đại dương của tiền sử, Vainamoinen trôi giạt đi chệch hướng
lay động bởi các bao tay của sóng lừng
hoặc trải dài trong hoàn vũ phản chiếu cái thời buổi tạm yên từ đó chim ra đi và lớn lên
Từ một hạt rơi phất phơ xuống các mảnh đất
cuối biển khơi người ta thấy dồn lên sóng cả
bật lên một lớp sa mù
Một cây toả bao la, vỏ thân có vảy
lá cây mờ trong, và sau chúng
là các cánh buồm trắng phồng lên những ánh nắng khơi xa
Ánh nắng nhập đồng. Đại bàng bay lên