Tạ Hiện 謝現 (1841 - 1887 hoặc 1893) còn có tên là Tạ Quang Hiện 謝光現, quê thôn Quang Lang xã Thuỵ Hải, huyện Thuỵ Anh, nay thuộc huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình, là Đề đốc quân vụ Bắc Kỳ thời vua Hàm Nghi, lãnh tụ phong trào Cần Vương tại địa bàn tỉnh Thái Bình.
Sau khi dẹp tan quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, năm 1882, ông được vua Tự Đức thăng chức Đề đốc. Nhưng khi Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai vào năm 1883, triều đình Tự Đức phải ký hoà ước bán nước, ông rất bất bình và đã trả ấn từ quan để phản đối. Về quê nhà, ông cùng với Phạm Huy Quang tập hợp nghĩa quân, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa của ông bắt đầu từ năm 1883 kéo dài đến năm 1887, diễn ra ở vùng Thái Bình và Nam Định. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một phần của phong trào Cần Vương theo lời hiệu triệu của vua Hàm Nghi, mặc dù lời hiệu triệu được ban hành năm 1885.
Năm 1884, ông là một trong các chỉ huy của phía Việt Nam trong liên quân Việt - Thanh đánh thắng quân Pháp trong trận Bắc Lệ diễn ra tại đồn Bắc Lệ, nay là xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Tạ Hiện 謝現 (1841 - 1887 hoặc 1893) còn có tên là Tạ Quang Hiện 謝光現, quê thôn Quang Lang xã Thuỵ Hải, huyện Thuỵ Anh, nay thuộc huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình, là Đề đốc quân vụ Bắc Kỳ thời vua Hàm Nghi, lãnh tụ phong trào Cần Vương tại địa bàn tỉnh Thái Bình.
Sau khi dẹp tan quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, năm 1882, ông được vua Tự Đức thăng chức Đề đốc. Nhưng khi Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai vào năm 1883, triều đình Tự Đức phải ký hoà ước bán nước, ông rất bất bình và đã trả ấn từ quan để phản đối. Về quê nhà, ông cùng với Phạm Huy Quang tập hợp nghĩa quân, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa của ông bắt đầu từ năm 1883 kéo dài đến năm 1887, diễn ra ở vùng Thái Bình và Nam Định. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một phần của phong trào Cần Vương theo lời hiệu triệu…