I. THÂN THẾ THỜI NIÊN THIẾU
Quý Hợi (1923) sông nước Ô Môn
Thiện sĩ mở cửa càn khôn chào đời
Họ Nguyễn tên Ất thanh ngời
Người là con út nhà thời có năm
Thân phụ Thiện Đức hằng chăm
Mẹ là Phước Ngọc hay tầm thiện lương
Tám tuổi với sự khôn lường
Bỏ trần cha đã định thần về tây
Anh chị em ở chốn nầy
Bàn cùng thân mẫu quy đây cửa thiền
Tôn sư Minh Trí ưng liền
Minh Châu pháp hiệu trải yên đoạn đường
Nhờ căn đạt ý thông thường
Cộng thêm hiếu học am tường nghĩa kinh
Xem dò bậc thánh lòng tin
Tâm dường trăng sáng như in phú ngời
Năm lên mười sáu tuổi đời (1939)
Cần cầu giáo pháp tỏ nơi chân thường
Hoà thượng Minh Phụng tuyên dương
Minh Tâm pháp hiệu kềm cương đạo từ.

II. NHÂN DUYÊN XUẤT GIA
Đầu năm một chín năm hai (1952)
Pháp duyên hội đủ gặp ngay Tổ thầy
Khi nghe diệu pháp âm bày
Ngài bừng giác ngộ kỉnh thầy xuất gia
Tổ sư hoan hỷ nhận ra
Đặt cho pháp hiệu thật là Giác Nhiên
Sa Di giới đoạn năm triền (1953)
Nối theo Chơn Lý hoằng truyền chúng dân
Chánh pháp mở rộng thôn lân
Lục tỉnh Nam bộ pháp ân ban truyền
Tổ sư vắng nhuộm ưu phiền
Gương thầy rạng rỡ mọi miền nối eo
Giác Chánh nhị tổ Ngài theo
Ất Mùi cụ túc Tỳ kheo (1955) thọ cầu
Phạm hạnh tri đức tươi mầu
Pháp khí Phật bảo ửng hầu chí thiêng
Tỏ thông tạng pháp kinh chuyền
Đêm ngày hoá đạo hoằng truyền nơi nơi.

III. THÀNH LẬP GIÁO ĐOÀN IV VÀ HOẰNG PHÁP ĐỘ SANH
* THÀNH LẬP GIÁO ĐOÀN IV
Nối tiếp công hạnh Tổ sư
Thắp đèn tuệ giác kinh thư giáo đoàn
Miền Nam bậc bốn (IV) hương ngàn
Sư tử rống pháp chúng tràn noi theo
Sài Gòn, Tây bộ, Trung chèo
Trên thuyền Bát Nhã thôn nghèo kỉnh Tăng
Bốn mươi Tịnh xá xa gần
Thiện nam tín nữ chuyên cần pháp âm
Bình Thạnh Tịnh xá Trung Tâm
Trung ương trụ sở hằng chăm giảng truyền
Quận Hai Pháp viện đà tuyên
Minh Quang giáo dục chí thiêng rạng ngời
Bên cạnh quận huyện nhiều nơi
Tỉnh thành cận đạo chẳng ngơi hạnh nguyền.

* GIÁO HỘI TĂNG GIÀ KHẤT SĨ VIỆT NAM THÀNH LẬP
Một chín sáu sáu (1966) lập thành
Tăng già Khất sĩ Giáo lành Việt Nam
Đây là ngôi báo già lam
Pháp nhân pháp lý việc làm đủ duyên
Thảy đều hội đủ chân truyền
Tổng tri vụ Trưởng kiêm yên xứ lành
Tăng sự, Hoằng pháp, thiện sanh
Ngài đều hoàn tất tiến nhanh nhị kỳ
Vào năm một chín bảy hai (1972)
Kỳ ba Đại hội lần này Trung Tâm
Nghị quyết thành lập khai đường
Viện Hành, Chỉ đạo hoằng dương độ đời
Đại chúng gương sáng tôn Người
Viện trưởng Hành đạo ở nơi công dày.

* ĐỘ MỘT THẾ HỆ TĂNG GIÀ
Sứ mạng thay thế Như Lai
Tiếp Tăng độ chúng khuyến tài nhân sanh
Ra đời rường cột gương lành
Đồng môn đại chúng xây thanh giáo đoàn
Giác Phúc, Giác Ngộ, Lai, Toàn
Giác Thông, Giác Vạn, kế an Giác Giàu,…
Đều là Giáo phẩm cao sâu
Cao niên chẳng ngại kề nhau chí tình.

IV. HOẰNG PHÁP HẢI NGOẠI
Sau khi Tổ quốc hoà bình
Đức Ngài phó chúc hậu trình giới an
Tháng chín thu trải lá vàng
Một chín bảy tám (9/1978) Ngọ mang tin nầy
Chí thành đảnh lễ Tổ Thầy
Phương xa hoằng pháp hạnh dày duỗi cương
Hoa Kỳ trụ thế quê hương
Úc châu Pháp quốc hoằng nương đạo mầu
Các bang Chân lý truyền trao
Qua lời Phật dạy cùng thao hạnh lành
Thơ ca dễ hiểu dễ hành
Bao người hạnh phúc luyện thanh cõi người
Năm Thân một chín tám mươi (1980)
Đứng ra xin phép nguồn khơi đạo tràng
Giáo hội phát triển từng bang
Thế giới Khất Sĩ thịnh vang Tăng già
Tiếng lành trống giục gần xa
Phật giáo Pháp chủ Ngài là chứng nhân
Bảo lãnh Tăng chúng hiền tăng
Hoa Kỳ tu học sở năng hoằng truyền
Thiền viện, Tịnh xá dựng nên
Trang nghiêm cõi Phật dựng nền Như Lai.

V. CÔNG TRÌNH BIÊN SOẠN SÁNG TÁC ẤN TỐNG PHÁP BẢO
“Nghi thức tụng niệm”[8] công trình
Ngôn ngữ thuần Việt như in dễ dàng
Kinh thư đọc tụng khôn bàn
Âm vang trầm bổng lọc sàng khổ vơi
Thập niên một chín sáu mươi (1960)
“Chơn Lý” in lại tuyệt vời chẳng sai
Cũng trong lúc ấy đức Ngài
Sáng tác biên soạn phú khai độ đời
“Toạ thiền pháp chỉ” nào ngơi
Dứt trừ loạn vọng muôn nơi định thiền
“Bảo kệ, Thương nhớ mẹ hiền”
“Tiếng lòng hiếu tử, nhiên đăng” rạng trời
“Kệ pháp, Pháp bảo” cao ngơi
Về sau kết lại mỗi thời phá mê
“Tứ kệ tĩnh tâm” tựa đề
Tăng Ni Khất sĩ vai kề tạo nên
Ba mươi năm trọn xây nền
Hoằng pháp xa xứ thơ bền giáo khuyên
Lời thơ sáng tác điều tuyên
Nhiệm mầu “Diệu lý” hoằng duyên phú trầm
“Đông phương, Thiền định, Tĩnh tâm”
“Pháp đăng” huệ sáng soi ngầm “Phá mê”
“Viên Thông” tỏ ngộ đi về
“Tâm kinh” “Bát Nhã” khuôn lề “Minh Quang”
Chân thường tỏ ngộ đôi đàng
“Siêu nhân tư tưởng” bước quang tỏ tường
Thấm nhuần chất Phật vô thường
“Chữ Tê (T)” lợi hại không lường kéo lôi
Tình, tiền, tù, tội luân hồi
“Phật học từ điển” lại bồi lý kinh
“Phật pháp căn bản” hồi sinh
Do Ngài chứng được trí minh tựu về.

VI. NHỮNG KHOẢNH KHẮC VÀ DẤU ẤN THIÊNG LIÊNG
Vào năm lẻ một hai ngàn (2001)
Quê hương cách biệt dặm ngàn nơi xa
Bước chân trở lại quê nhà
Viếng thăm tôn đức Tăng và chư Ni
Dẫn đoàn từ thiện cùng đi
Viếng Nam thăm Bắc bái di tích già
Thật nhiều cảm xúc quê nhà
Thiêng liêng hùng vĩ mượt mà gió sương
Tiếng vang khắp nẻo đồi nương
Núi cao biển lớn mười phương vọng tràn
Phật đản lẻ sáu hai ngàn (2006)
Chứng minh đặt đá đạo tràng trùng tu
Khai đàn tâm huyết bao thu
Bồi tô Pháp viện chỉnh chu rạng ngời
Mở mang hoằng pháp kịp thời
Tâm linh rạng rỡ tuyệt vời trí an
Vào năm lẻ tám hai ngàn (2008)
Vesak trọng thể lời vang Mỹ Đình
Linh sơn pháp lữ đạo tình
Đức Ngài tham dự thuyết trình chân nhân
Hóc Môn Hoằng Pháp giáo ân
Diệu kì ngữ thuyết lý chân đạo tràng
Bệnh duyên lẻ chín hai ngàn (2009)
Ngài vẫn cố gắng tham quan lễ đài
Tưởng niệm Sư Tổ đức ngài
Chứng minh xây dựng công khai khởi đầu
Minh Đăng Quang sáng trăng thâu
Chúng tu thành kính đạo mầu kính chăm
Mười bốn hai ngàn vào năm (2014)
Duyên bệnh thêm nặng hành thân chẳng nề
Ngài vẫn cố gắng quay về
Tưởng niệm ơn Tổ mọi bề yên vui.

* DẤU ẤN THIÊNG
Pháp sư cốt cách thanh cao
Lợi sanh hoằng pháp không nao tất lòng
Giản dị, khiêm hạ, bao dung
Chân tình ngời sáng dấn thân độ đời.

VII. NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI VÀ VIÊN TỊCH
Sanh lão bệnh tử hồ nhiên
Chín năm tứ đại thường xuyên xoáy mòn
Tăng Ni pháp tử đồng môn
Cận kề chăm sóc sớm hôm chẳng rời
Bác sĩ nổi tiếng chữa chuyên
Nhưng rồi theo luật đà tuyên vô thường
Nhơn sanh một kiếp khó lường
Đến hồi cũng phải khiêm nhường đổi thân
Nhân ngày thành đạo Quán Âm (19/6 âl)
Hoa Kỳ nơi tịch khói trầm phủ xa
Hiện thân trụ thế chín ba (93)
Sáu mươi (60) hạ lạp dần qua đạo đời
Chu du góc biển chân trời
Dựng xây giải thoát khắp nơi chí tình
Phạm hạnh tri thức hằng minh
Sanh thân ý nguyện tâm linh đạo lành
Hoà nhơn tạng luận đồng thanh
Phụng sự tứ chúng thiện sanh đủ đầy
Đến đi không chút riêng tây
Quê nhà yên nghĩ đó đây trọng tình
Muôn dân luyến tiếc trì kinh
Cầu ngài hiển độ chúng sinh cõi này
Chúng con hậu bối nơi đây
Lời vàng pháp bảo gương thầy sắt son:
Lời vàng tiếng ngọc gởi về con
Đạo đức bền tâm giữ vẹn tròn
Dầu cách xa Thầy muôn vạn dặm
Gìn lòng son sắt sánh bằng non

Tình sâu dạ cảm chơi vơi…
Dù đi khắp bốn phương trời,
Trăm năm dừng nghỉ về nơi quê mình.
Quê mình sông nước hữu tình,
Non cao, biển rộng… tâm linh rạng ngời
”.

Nhân ngày Lễ Đại tường HT.PS. Giác Nhiên (19/6/Ất Mùi - 19/6/Đinh Dậu).
Thành kính tưởng niệm Ân đức sâu dày của Ngài.