Thơ » Việt Nam » Cận đại » Huỳnh Thúc Kháng » Bài ca lưu biệt
Trăng trên trời có khi tròn khi khuyếtTrăng tròn rồi lại khuyết - một ý thơ bắt nguồn theo quan niệm "thiên địa tuần hoàn" nghĩa là trời đất xoay vần, hết vòng này lại chuyển qua vòng khác. Cũng như cuộc sống của mỗi người hết "an" lại đến "nguy". Sông có khúc người có lúc, cho nên bất cứ ai, đâu có thể thoát khỏi vòng gian nan, vất vả, nguy hiểm. Trăng "khuyết" cũng như con người gặp "tiết gian nan" là chuyện tất yếu, chuyện bình thường. Hai câu thơ thể hiện một cái nhìn sáng suốt, bình tĩnh trước tai hoạ cuộc đời.
Người ở đời đâu khỏi tiết gian nan
Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi anĐấng trượng phu là người tài giỏi, có khí phách trong xã hội phong kiến. Hai câu chữ Hán có nghĩa là: Đấng trượng phu gặp bất kì cảnh ngộ nào cũng xử trí được. Luôn luôn chủ động, làm chủ hoàn cảnh, làm chủ tình thế an, nguy, hoạn nạn trên đường đời. Gặp cảnh hoạn nạn sẽ xử trí theo cảnh hoạn nạn, quyết không chịu bó tay, đầu hàng trước hoạn nạn, thử thách. Hai câu thơ chữ Hán xuất hiện đầy sáng tạo, làm nổi bật ý chí vững vàng, một tư thế hiên ngang, đàng hoàng của kẻ sĩ chân chính trước mọi thử thách ác liệt. Có đặt câu thơ vào hoàn cảnh cụ thể mới thấy bản lĩnh phi thường cỉa nhà chí sĩ cách mạng Huỳnh Thúc Kháng. Mới ngày nào bị kết án "trảm giam hậu" nay lại bị đày ra Côn Đảo với cái án "khổ sai chung thân", nhưng nào có hề gì, bởi lẽ "tổ hoạn nạn hành hồ hoạn nạn" Có thể nói, màu sắc cổ điển, cốt cách chiến sĩ được thể hiện tuyệt đẹp qua khổ thơ đầu bài hát nói này.
Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn
Bấy nhiêu năm cũng vẫn chưa già,Với cái án khổ sai chung thân mà lại nói "Bấy nhiêu năm cũng vẫn chưa già, cách nói ấy là một sự thách thức, bất khuất ngạo nghễ. Núi Ân Sơn còn gọi là núi Chúa hay núi Mỏ Diều, sông Đà tức là sông Cẩm Lệ, là hai cảnh đẹp của Quảng Nam - Đà Nẵng, quê hương thân yêu của nhà thơ. Sông, núi ấy gắn bó biết bao thương yêu đợi chờ. Huỳnh Thúc Kháng vững vào một ngày mai không xa sẽ trở lại nơi quê cha đất tổ, đem tài năng để góp phần "thêu dệt" điểm tô, quê hương được phục hưng và cường thịnh. Trong niềm tin có cả một tình yêu sâu nặng. Trong tự hào có cả một tấm lòng chung thuỷ gắn bó với quê hương. Chữ "ta" vang lên đĩnh đạc, tự hào, thể hiện cái hùng tâm của kẻ sĩ chân chính: "Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt".
Nọ núi Ấn, này sóng Đà
Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt.
Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệtCâu trên là một phủ định để khẳng định. "Tụ" là hợp lại, "tán" là tản ra. "Tụ, tán" là gặp gỡ, chia li. Sau phong trào Duy Tân tự cường, nhiều chiến sĩ yêu nước bị bắt, bị cầm tù, cùng chung xà lim, ngục tối, thế là tụ, nay mai người bị đày ra Côn Đảo, người bị giam hãm khắp các nhà tù đó đây, thế là "tán", nhưng chỉ là tiểu biệt" mà thôi, nghĩa là chia li nhất thời. Ý thơ tương phản đối lập giữa “tụ, tán" với "tiểu biệt" đã biểu lộ một cách nhìn, một cách sống rất tỉnh táo, lạc quan trong đại hoạ, trong gian nan. Câu dưới sử dụng điển tích "Thất mã Tái Ông" cấu trúc câu thơ dưới hình thức câu hỏi tu từ cũng thể hiện một niềm tin chói sáng: bị tù đày chưa hẳn "hoa" hay đó là "phúc" để người chiến sĩ yêu nước thử thách can trường, lòng dạ trung thành sắt son với nước, với dân! Một ý thơ đẹp, được diễn tả rằng vần thơ hàm súc, giàu âm điệu, đúng là câu ca của “Bài ca lưu biệt". Ba câu thơ tiếp theo cũng nói lên một tâm thế rất đẹp: dù con tạo (tạo hoá) có cơ cầu, có sắp xếp đi thế nào nữa, thì đến đâu, ở đâu cũng là quê hương, cũng nước non nhà. Chỉ biết rằng trong cuộc sống trăm năm, cần có ta:
Ngựa Tái Ông hoạ phúc biết về đâu?
Một mai kia, con tạo khéo cơ cầuCâu thứ hai nhiều bản chép sai. Không phải là "trong vòng trời đất cả" mà là "trong bầu trời đất cả". "Bầu trời" cũng gần nghĩa như "vòng trời" có điều chữ “bầu" thì mới vần với chữ "cầu" ở trên. "Vần" là một trong những yếu tố hàng đầu của tính nhạc trong thơ, nhất là thơ hát nói. Câu thơ chữ Hán: "Ư bách niên trung tu hữu ngã” ta đã từng bắt gặp trong bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu; điều đó cho thấy tâm hồn hai nhà cách mạng vĩ đại gặp nhau trong một tư tưởng vĩ đại, cùng khẳng định vai trò của nhà nho chân chính trước mệnh lịch sử. Trong cuộc đời, cuộc sống một trăm năm cần có ta. Câu thơ vang lên như một tuyên ngôn, đĩnh đạc, hùng hồn. Các chí sĩ cách mạng đầu thế kỉ XX như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... đã sống và hành động đẹp như thế!
Thảy bốn biển cũng trong bầu trời đất cả
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Dẫu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả,Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản: "Dẫu... vẫn...". "Núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả" tượng trưng cho những biến cố dữ dội ấy cũng chẳng hề gì! vẫn trong sáng như "vàng", vẫn cứng rắn như "đá", dù có tạc đi, đập đi cũng chẳng mòn, chẳng tan nát, biến dạng. Khí tiết ấy, tinh thần bất khuất ấy là của một lớp nhà nho chân chính đầu thế kỉ. Họ đã để lại ba bài học lớn cho con cháu mai sau: "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Với họ thì cường quyền, bạo lực, khổ ải chốn lao tù chẳng đáng sợ:
Tấm lòng vàng, tạc đá vẫn chưa mòn,
Trăng kia khuyết đó lại tròn.
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu?
(Phan Bội Châu - Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)
Gian nan xin độ khách anh hùngNếu mở đầu bài hát nói là câu "Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết" thì câu keo cuối bài lại là hình ảnh "Trăng kia khuyết đó lại tròn" như một niềm tin, một hi vọng dào dạt tinh thần lạc quan tin tưởng. Trăng khuyết sẽ tròn, hết bi cực thì đến thái lai. Bị tù đầy rồi sẽ giành được tự do. Niềm tin chói lọi, vẫn thơ như ánh trăng rằm toả sáng trời đêm. Tin ở bản thân mình, tin ở con đường cách mạng, cứu dân cứu nước, tin ở sức mạnh chính nghĩa của dân tộc.
(Phan Châu Trinh - Cám cảnh Côn Lôn)
Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an,
Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn.