Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Liên Phong » Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909)
Đăng bởi Vanachi vào 07/01/2019 16:25
Tân An phong cảnh thi:
Đoái nhìn phong cảnh hạt Tân An,
Đất tốt người đông ruộng cả ngàn,
Giồng Én Tướng quân bia hãy tạc,
Vũng Gù khoa giáp tiếng còn vang.
Nổi danh lớp trước nhiều tay lịch,
Phát phước giàu to lắm kẻ sang.
Tục mỹ phong thuần khoe chốn chốn,
Đơn thi xướng hoạ thú thanh nhàn.
Vũng Gù là hạt Tân An,
Châu thành Bình Lập thật làng có danh.
Hai bên phố xá phân minh,
Nhà việc ngay giữa đất chinh chinh bằng.
Nhờ quan Chánh bố La-rang (Lagrange),
Trước ngồi Rạch Giá sau thăng Vũng Gù.
Tới đâu kinh lý chỉnh tu,
Làm cho các xã công nhu có nhiều.
Ngài hay nghĩ nghị bày điều,
10. Sửa Tân An hạt mĩ miều tốt thay.
Châu thành Bình Lập ngày nay,
Nghiêm trang tề chỉnh thêm rày lợi riêng.
Châu Hoằng Long, rất lanh siêng,
Năm năm làm xã mối giềng nội thôn.
Tánh người nhặm lẹ khéo khôn,
Lập gánh hát bóng tiếng đồn gần xa.
Thông minh ít kẻ ăn qua,
Bao nhiêu máy móc coi ra đủ điều.
Có em tên gọi Giáo Nhiều,
20. Lâu nay chứa để biết nhiêu kiểu hình.
Mấy mươi thứ kiểu phân minh,
Đóng khuôn sấp lại treo xanh quanh nhà.
Tánh chơi cũng khác người ta,
Dạy con ăn học thiệt thà nghĩa phương.
Đồ làm chung biểu đầy rương,
Siêng năng sớm tối thường thường sửa trau.
Khen cho ý tứ cơ cầu,
Đồng hồ nghề nghiệp nhiệm mầu trí riêng.
Đẹp thay nhà Hội đồng Nguyên,
30. Cột rường tráng lệ khuôn viên một toà.
Chiêu hiền đãi sĩ gần xa,
Rượu đờn thơ phú xướng hoà ăn chơi.
Tân An toàn hạt nơi nơi,
Ruộng hai ba hạng lộc trời phì nhiêu.
Đất thuột ruộng thảy mĩ miều,
Đất hoang mới khẩn chỗ đều kheo như.
Thâu Thành khi thiếu khi dư,
Bổn căn thổ sản gốt chừ là nông.
Tiếng rằng ruộng khẩn Bắc Đông,
40. Đá Biên, Cờ Nhiếp minh mông cả rừng.
Bá Biên vàm có tàu ngừng,
Trao thơ bánh thịt ghe luân chuyển vào.
Tới nơi Cờ Nhiếp sẽ giao,
Hoạ đồ kinh lý trâu vào luôn luôn.
Thuở xưa cảnh ấy quá buồn,
Ngày nay mở phát phá ruồng mới xong.
Thẳng vô tới kinh Bắc Đông,
Ngã tư mới cũ đào thông hai đầu.
Một đầu đào cũ đã lâu,
50. Một đầu thì mới đào sau đã rồi.
Từ đó thẳng vô môt hồi,
Đến Nhơn Ninh xã hẳn hòi dân đông.
Thương Ngô Hữu Tự có công,
Qui dân lập ấp nghiệp nông thành làng.
Tục ngữ kêu kinh Năm Ngàn,
Dân nhờ hột lúa nhẩy tràng đủ tiêu.
Đập đìa cá mắm biết nhiêu,
Tưởng ngày sau cũng thêm nhiều người ta.
Trời cho cây sẵn cất nhà,
60. Thiên thiên vạn vạn gần xa những tràm.
Sanh ra ở cõi bờ Nam,
Lợi trong đất nước siêng làm xiết bao.
Liền nơi Cờ Nhiếp thẳng vào,
Muốn nhắm chỗ nào thì có thang trông.
Minh minh trước mặt những đồng,
Thông qua Trập Tháp không không cả trời.
Rừng tràm xem khắp nơi nơi,
Mỹ Tho, Sa Đéc, xa khơi tứ bàn.
Dân cư rải rác xóm làng,
70. Gốc nhờ lúa cá cũng nhàn với nhau.
Năm ba năm nữa về sau,
Chắc thêm đông đảo lợi đâu sánh tày.
Dân giàu nước mạnh xưa nay,
Chánh chung thạnh trị tốt thay vững vàng.
Hiềm vì con chuột nhẩy tràng,
Đêm ra cắn lúa khốn nàn nhà nông.
Phép chi trừ đặng cho xong,
Điền gia các chú tấm lòng mới an.
Bắc Chiên đất lắm Mên Mang,
80. Giáp với Trà Lét Nam Vang địa phần.
Ở xen Hớn, Thổ làm ăn,
Thổ nhiều Hớn ít người năn cơ hàn.
Giáp thìn trận bão vừa tàn,
Bước qua Ất tỵ hoạ sang cào cào.
Nhà nghèo xiết mấy khổ lao,
Tản đi xứ khác biết bao li loàn.
Khắp xem nội hạt Tân An,
Thanh hoa đẳng vật mỗi làng đủ tiêu.
Đồ ăn tôm cá cũng nhiều,
90. Mé sông dừa nước trồng đều nhặt sai.
Xe lửa bốn buổi ghé hoài,
Tàu đò tuần lễ đặng vài ba phen.
Ăn chơi bất luận sang hèn,
Đấu kê đổ bát thói quen trong làng.
Kì Son, Nhựt Tảo khắp ngàn,
Ruộng tốt đầy tràng giáp tới Gò Công.
Kì Son trước có phú ông,
Kêu là ông Hóng người đồng nhớ tên.
Hãy còn tiếng đề lâu bền,
100. Rằng kinh ông Hóng ai quên đặng nào.
Các nhà khoa mục cựu trào,
Cử Cần, Cử Kiệm, phú hào lưu lai.
Nay còn con cháu gái trai,
Tại làng Bình Hiệp có vài người liêm.
Cai tổng Cù Hiển đương kiêm,
Với cùng cả Bá khiêm khiêm kỉnh hoà.
Ngụ làng Gia Thạnh Tú Trà,
Cử Tân, Tú Thiệp quán là Phú Xuân.
Cử Thông, Cử Đạt, Cử Xuân,
110. Ở làng Bình Trị vừa chừng văn chương.
Tú Nghi lại với Tú Lương,
Cũng người làng ấy khoa trường hữu duyên.
Thầy Tú Khâm, có điền viên,
Người làng Ái Nghĩa tánh hiền hậu thay.
Tổng Thạnh Hội Hạ đến nay,
Khoa danh thuở cựu đông dầy rất xinh.
Gốc nhờ sư phạm tiên sanh,
Đào Duy Khâm trước tác thành lắm công.
Làng Tường Khánh, tổng Hưng Long,
120. Tục kêu Cái Én là giồng Tiền Quân.
Phò Cao hoàng, đại công huân,
Ông Nguyễn Huỳnh Đức gian truân nhiều lần.
Sanh vi tướng tử vi thần,
Hiện tồn lư tẩm mộ phần tại nơi.
Cháu chắt còn ba bốn đời,
Là Nguyễn Huỳnh Hữu rạng ngời gia thinh.
Lửa hương phụng sự thủ thành,
Người kêu lăng miễu anh linh thấy thường.
Công thần cơ nghiệp miên trường,
130. Thiệt trời không phụ cột rường quấc gia.
Giồng thường có cát bồi sa,
Người hay chuyên chở đem ra Vũng Gù.
Chợ đông dân số mật trù,
Cai Tài, Quản Tập, Tầm Vu, Thủ Thừa.
Chợ Rạch Mát, người nhóm thưa,
Kỳ Son, Nhựt Tảo, vừa vừa dễ coi.
Vũng Gù đông đảo hẳn hòi,
Tham Nhiên, Phó Lí rạch ngòi xứ quê.
Làng Bình Cang, vàm Châu Phê,
140. Gốc xưa chữ đề cảm bấy quân ân.
Thuở kia ông Nguyễn Phước Vân,
Đánh Mên dẹp giặc dần dần mở mang.
Khẩn khai mấy sở đất hoang,
Đem mình xướng suất cả đoàn quân dân.
Lịnh vua châu bút phê tuần,
Phước Vân ruộng khẩn cho phần quản chuyên.
Để làm huyết thực tự điền,
Người ta tự hậu kêu miền Châu Phê.
Các chùa miễu rất chỉnh tề,
150. Xuân kỳ thu báo giữ bề lễ nghi.
Tang hôn ngộ sự bất kỳ,
Đầu đoà báo lý thích kỳ vãn lai.
Học trường các sở trong ngoài,
Mấy thầy giáo tập dồi mài đợi khoa.
Trường riêng dạy chữ nho ta,
Lệ cho ôn cố mới là tri tân.
Bảy ngày lễ bái một lần,
Người trong đạo chúa chuyên cần đọc kinh.
Thánh đường phong cảnh đẹp xinh,
160. Các ông Linh mục giảng minh hết lòng.
Ngôi nhà thầy Hội đồng Phòng,
Cũng là hạng khéo ở trong hạt nầy.
Cực vì nước uống quá gay,
Nước mưa nước giếng vừa my đủ xài.
Ngay theo thiết lộ đường dài,
Giáp qua ranh Mỹ một vài ga xe.
Hai bên vườn ruộng phủ che,
Súp lê xe thổi chúng nghe om trời.