Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu » Lục Vân Tiên
Đăng bởi Vanachi vào 27/07/2005 13:02
Xa xa vừa mấy dặm đường,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
421. Trải qua thuỷ tú, sơn kỳ,
Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa võ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.
431. Trực rằng: “Rồng xuống vực xâu,
“Mặc dầu dỡn sóng mặc dầu chơi mây.”
Tiên rằng: “Hồng Hộc đều bay,
“E khi mỏi cánh lạc bầy về sau.”
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
Phút đâu gặp bạn đi thi,
Đều bày tên họ một khi mới tường.
441. Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở quận Dương xuân,
Họ Bùi, tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: “Nghe tiếng anh Tiên,
“Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao.”
Hâm rằng: “Chưa biết thấp cao,
“Làm thơ mới biết bậc nào tài năng.”
451. Bèn kêu ông quán nói rằng:
“Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề.
Quán rằng: “Thịt cá ê hề,
“Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
“Kìa là thuốc lá ướp ngâu,
“Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
“Để khi đãi khách giầu sang,
“Đãi người văn vật, đãi trang anh hùng.”
Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ,
461. Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: “Ông quán cười ai?”
Quán rằng: “Cười kẻ bất tài đồ thơ.
“Cười người Tôn Tẫn không lừa,
“Trước đà thấy mấy chẳng ngừa Bàng Quyên.
471. Trực rằng: “Lời nói hữu duyên,
“Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?”
Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
“Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
“Hỏi thời ta phải nói ra,
“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.”
Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
“Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
“Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
481. “Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
“Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
“Ghét đời U, Lệ đa đoan,
“Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
“Ghét đời Ngũ bá phân vân,
“Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
“Ghét đời Thúc quý phân băng,
“Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân.
“Thương là thương đức thánh nhân,
“Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.
491. “Thương thầy Nhan-tử dở dang,
“Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
“Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
“Thương thầy Đồng tử cao xa,
“Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
“Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
“Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
“Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
“Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
501. “Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
“Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
“Xem qua kinh sử mấy lần,
“Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.”
Trực rằng: “Chùa rách phật vàng,
“Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
“Thương dân sao chẳng lập thân,
“Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?”
Quán rằng: “Nghiêu, Thuấn thuở xưa,
“Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.
511. “Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,
“Một mình một núi, ai hầu chi ai.
“Ông Y, ông Phó ôm tài,
“Kẻ cày, người cuốc đoái hoài chi đâu?
“Thái công xưa một cần câu,
“Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
“Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
“Cày mây, cần nguyệt tả tơi áo cầu.
Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
“Gió trăng một túi công hầu chiêm bao.
521. “Người nay có khác xưa nào?
“Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn.”
Kiệm rằng: “Lão quán nói nhăng,
“Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
“Gối rơm theo phận gối rơm,
“Có đâu ở thấp mà chồm lên cao.”
Quán rằng: “Sấm chớp mưa rào,
“Ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
“Sông trong cá lội thảnh thơi,
“Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
531. “Uổng thay đàn gảy tai trâu,
“Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cười.”
Tiên rằng: “Ông quán chớ cười,
“Đây đà nhớ đặng bảy người Trước Lâm.
“Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
“Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
“Công danh phú quí màng chi,
“Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.
“Rừng nho biển thánh mênh mông,
“Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay.”
541. Quán rằng: “Đó biết lòng đây,
“Lời kia đã cạn, rượu nầy thưởng cho.”
Kiệm, Hâm, là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.
551. Vân Tiên vừa bước chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà đưa thư.