Hai chàng về lạy gia nương,
Cùng nhau bàn luận mọi đường gần xa.
Nàng rằng: Chút phận không nhà,
Mặc con toan liệu, mẹ già cũng ưng,
Chớ lo dây đỏ vấn chưn,
Lo công nghiệp buổi thanh xuân cho tròn.
1480. Sau dầu danh tạc bia son,
Trời dành trong sách có con gái hiền.
Hai chàng thâm tạ nhà huyên,
Mang đồ tứ bửu lên miền Hà đông.

Mười ngày lên tới Hà đông,
Tìm nơi lánh ở, mình không dạo đường,
Cùng nhau vô đủ ba trường,
Còn chờ treo bảng, chưa tường đỗ không,
Trần Đoàn lãnh việc mai dong,
Phải đi lên trấn, theo cùng họ Dương.
1485. Mắc di chuyển vẫn dọc đường,
Tới nơi nghe chúng vào trường mới xong.
Hỏi tìm khắp hết tây đông,
Anh em Trân Bửu, đều không gặp rồi,
Bảy ngày kiếm ngược, kiếm xuôi,
Tới lui hai lẽ, thẳng dùi khôn toan,
Muốn về ra mắt Trấn quan,
Sợ e người hỏi hai chàng huyện ta.
May vừa cửa bảng xướng ra:
Dương Trân tên họ, Thủ khoa chánh vì.
1490. Cử nhân Dương Bửu thứ nhì,
Ba ngàn sĩ tử một khi khen giồi,

Yến diên, áo mão, ban rồi,
Trần Đoàn đóng cửa rước lui hai chàng,
Đem ngay vào chốn công đàng,
Lễ dâng bốn lạy, rỡ ràng nam nhi,
Trần Đoàn bèn lấy quyển thi,
Dâng lên trước án một khi khen liền
-Dạy rằng: Hai gã thiếu niên,
Chữ danh đã toại, chữ duyên thêm nồng.
1595. Vàng dòng ta cũng chẳng dùng,
Muốn cho ngọc nhuận, sánh cùng băng thanh.
Lứa đôi có số thiên thành,
Chờ khi tháng tốt, ngày lành sẽ toan,
Nói rồi vào chốn hậu đàng,
Khiến đem hai chàng, ra mắt phu nhân.

Phu nhân xem thấy rất mừng,
Rằng: Ơn trời khéo nhắm chừng định đôi,
Trai tài, gái sắc, phải rồi,
Nhà loan cửa phụng sánh ngôi, vui vầy,
1500. Sai người rước mẹ qua đây,
Chủ hôn cho trẻ kết dây sắt cầm,
Dương Trân, Dương Bửu đồng tâm,
Thưa rằng con nợ thanh khâm chưa rồi.
Trên đà thương cảm hai tôi,
Xin cho thoả dạ rạng rồi công danh.
Tiểu khoa sau lại phỉ tình bách niên.
Công rằng: Lời nói rất miêng
Chữ quyền cùng với chữ duyên đi liền,
1505. Thi hương sớm đã gặp duyên,
Chờ cho thi hội phỉ nguyền mới nên.
Nay đà làm lễ hỏi tên
Keo sơn chữ dạ cho bền ngày sau.
Hai con qua chốn thơ lầu,
Ở chơi vài bữa sẽ âu về làng.
Trần Khanh lại dạy Trần Đoàn
Khá tua bậu bạn hai chàng đi chơi.
Huyện quan trước án vâng lời,
Phải theo Trân, Bửu, chơi nơi thơ lầu,

1510. Tuyết, Băng hai gái riêng sầu,
Ngồi nơi hoa viện lo âu việc mình.
Tuyết, Băng cám chữ minh linh,
Vò vò nuôi nhện công trình biết bao.
Riêng than chút phận má đào,
Gặp xuân chưa biết ngày nào đền ân.
Băng rằng nghe việc hoà thân,
Gẫm trong mình lại muôn phần xót xa.
Có cha mẹ mới có ta,
Có ta, mới có cửa nhà giàu sang.
1515. Mẹ kia đã xuống suối vàng,
Cha xưa non nước khôn toan mất còn.
Hai bên nội ngoại bà con,
Đều người về đạo lại lòn cửa quan.
Từ ta nương dựa cửa sang,
Nào ai lui tới hỏi han thăm tình.
Dầu không gặp nghĩa minh linh,
Cội cây nguồn nước ở mình còn chi,
Mai sau đặng chữ vu qui,
Đã đành phận gái phải đi theo chồng.
1520. Trăm năm sống thác nhờ chồng,
Một môn dòng họ đều không nhìn rồi.
May còn chút tiếng con nuôi,
Ví như trà dở ướp mùi bông hoa,
Nay nghe hai gã tân khoa,
Cha đi tu mất, mẹ già khó khăn.
Vốn không nhà cửa nghiệp hằng,
Nhờ theo họ ngoại ở ăn học hành.
Tiếc rằng trời đất thình lình,
Khéo xe duyên phận cho mình quá ngang!
1525. Cha xưa về đạo Hoà lan,
Chẳng ưa đạo Phật, không màng đạo nho,
Cha nuôi nay chuộng đạo nho,
Gả chồng cũng lựa học trò bậc cao.
Cho hay duyên nợ buổi nào,
Con Trời, con Phật, đều vào theo nhu (nho)
Tuyết rằng: Ta học đạo nhu,
Đến nay mới biết công phu thánh hiền,
Sửa sang ba mối, năm giềng,
Dạy người thiên hạ vẹn tuyền tánh xưa,
1530. Đặt làm sáu bản đờn xưa,
Có thi vận để tiếng đưa tơ đồng,
Ta nay rảnh việc nữ công,
Hoà đờn một tiệc giãi lòng buồn ngâm.
Chị đờn sắt, em đờn cầm,
Tay đờn, miệng đọc, thâm trầm nghe hay.

Xuân Tuyết Đàn Ngâm:
Trời che đất chở đức cao dày,
Cha mẹ sanh con khó sánh tày.
Vậy có người hiền lo báo bổ,
Hai mươi bốn thảo dấu còn nay.


Thu Băng Đàn Ngâm:
Cha phải cha, con phải đạo con,
Rằng lành, rằng thảo, tiếng hay còn.
Cây kiều, cây tử, đời thường ví,
Chẳng trái lòng nhau mới đặng tròn,


Xuân Tuyết Đàn Ngâm:
Vua phải vua, tôi phải đạo tôi,
Sửa sang giềng mối mới lên ngôi
Minh lương hai chữ vầy trên dưới,
Nước trị nhà an, bốn biển vui,


Thu Băng Đàn Ngâm:
Vợ phải vợ, chồng phải đạo chồng,
Vợ chồng là đạo đất trời thông.
Khó nghèo đều chịu giàu đều hưởng,
Kết tóc trăm năm trọn một lòng,


Xuân Tuyết Đàn Ngâm:
Anh phải anh, em phải đạo em,
Huân trì hai ống thổi nghe êm
Sang đồng một cội, là xương thịt,
Sống thác nương nhau ở dịu niêm.


Thu Băng Đàn Ngâm:
Làm người bậu bạn muốn nên danh,
Lời thẳng khuyên nhau ở lấy lành,
Giao mặt xưa rằng vàng ngọc báu,
Giúp lòng nhân nghĩa, lại thêm xanh,


Anh em Trân, Bửu, ngồi buồn,
Lén qua hoa viện đi luồn xem chơi,
Anh em vừa bước tới nơi,
Phút nghe trong viện có lời đờn ngâm,
1535. Mấy dây cầm sắt hoà thâm,
Đờn ngân tiệp với thơ ngâm ai hoài.
Hai chàng dừng bước vách ngoài,
Rõ ràng nghe đặng sáu bài thơ xưa.
Trời thu đương lúc nắng trưa,
Chị em ngồi nực, vừa ưa buông đờn.
Hai chàng ngoài vách mau chơn,
Bước vào trong viện coi đờn những ai,
Hay đâu hiệp mặt gái trai,
Mày qua mắt lại, hoà hai ngỡ ngàng.
1540. Tuyết, Băng mắc cỡ vội vàng,
Cúi đầu che mặt, hậu đàng trở vô.
Hai con thể nữ hầu cô,
Cất đờn, bưng hộp, nói phô đều cười.
Bửu, Trân, thấy cũng nực cười,
Bước vô trong viện kiếm lời hỏi qua.
Cho hay con tạo khéo ngoa,
Dạo tầm hoa, lại bỗng ra thấy người,

Trần Đoan bạn với hai người,
Ở nơi hoa viện đã mươi ngày rồi,
1545. Thưa cùng quan trấn kíp hồi,
Tần công bèn dựng lễ bồi đưa ra,
Ban cho năm vóc vân sa.
Sâm nhung, Thanh quế để già dưỡng thân,
Lại cho vàng bạc hai cân,
Của đưa chàng rể sắm phần ra đi.

Mười ngày về tới châu Khê,
Người làng đón rước bộn bề lễ nghi,
Tiếng hay, đâu cũng yêu vì,
Hai thầy cử nhỏ đậu thi trở về.
1550. Ai dè chăn ngỗng, chăn dê,
Vận trời ngó lại ra bề người sang,
Bà con họ nội xa đàng,
Võng dù xin rước về làng thuở xưa.
Đỗ nương, Đỗ Khoái đãi, đưa,
Tiệc bồi năm bữa, mới vừa rảng rang.

Dương Trân, Dương bửu, hai chàng,
Thưa cùng cậu, mẹ, hiệp bàn việc hôn.
Nàng rằng: Nhờ của công môn,
Ban cho vật quí, mình khôn chối từ.
1555. Chưa hay hai gái hoa tươi,
Đứng trong đào liễu đua cười mấy xuân?
Hai chàng đem việc họ Tần
Đờn nơi hoa viện đều phân tỏ tường,
Nàng rằng: Nhờ phước tổ đường.
Cho con gặp thuở khoa trường nên danh.
Nhờ trời phước đặng chữ vinh,
Sau rồi sẽ liệu gia đình mới xong.
Hai con vào chốn thơ phòng,
Ôn nhuần kinh sử lo vòng thi xuân.

1560. Lần hồi ngày tháng tới gần,
Đem nhau cất gánh trông chừng Tràng an.
Hai chàng đi tới Tấn bang,
Vào trường thi hội, bảng vàng đỗ cao.
Trước đền đứng lặng đầu ngao,
Dương Trân Bảng Nhãn, Bửu vào Thám hoa.
Tuy không dành Trạng nguyên khoa,
Cung thiềm, tháp nhạn cũng là á khôi.
Hốt hoa, bào gấm ban rồi,
Quỳnh lâm mở tiệc, chúa tôi phỉ lòng.
1565. Tờ truyền tới trấn Hà đông,
Tần Khanh văn tín vợ chồng đều vui.
Truyền quân lập tức trống hồi,
Tới Nam khang huyện dọn ngôi công đàng.
Cứ theo Trà thạch các làng,
Cất làm nhà cửa nghiêm trang một toà,
Giấy nêu rường cột nguy nga,
Nam khang một huyện ít nhà dám đang,
Dọn rồi án kỷ rỡ ràng,
Xảy vừa tới lúc hai chàng vinh qui,

1570. Bảng vàng tán đỏ, đều đi,
Ngựa xe võng giá oai nghi chói loà
Lại thêm áo mão giồi ra,
Lịnh ban gấm nhiễu ngọc ngà thiếu chi,
Khắp nơi châu huyện đều vì,
Thổi kèn, gióng trống, ra đi rước mừng.
Cho hay đỏ tía sắc xuân,
Để dành trong sách giồi thân học trò.
Thật nhờ họ Đỗ ơn to,
Lúc nầy mới đặng trời cho sang giàu.
1575. Châu Khê đùm đậu bấy lâu,
Đền ơn nhờ cậu, trước sau phỉ tình,
Hạc lầu là chỗ dương danh,
Anh em trả nghĩa sư sanh cũng tròn.
Nay đà đẹp mặt mẹ con,
Ở nơi Trà thạch ăn ngon, mặc lành,
Nhờ vua hai chữ hiển vinh,
Một môn dòng họ linh đình tới lui,

Anh em Trân, Bửu chẳng vui,
Nhớ cha đi mất, ngùi ngùi thở than.
1580. Dọn ra trước chốn công đàng,
Đặt làm hương án, một bàn vọng lên,
Họ tên bài vị rõ biên,
Ăn chay nằm đất chúc nguyền vong linh,
Theo nho dùng lễ tam sinh,
Đọc bài văn tế phỉ tình cha con.

Văn Tế Rằng:
Hỡi ôi!
1. Trăng xế bóng xuân;
Mây giăng lầu Hạc.
2. Thấy chữ “mặc liên” thơ cũ,
Chi xiết não nùng;
Nghĩ câu “”phong mộc” người xưa,
Càng thêm bát ngát.
Nhớ linh xưa:
3. Kinh sử đều thông;
Vận thời chẳng đạt,
4. Công, danh, hai chữ,
Mơ màng bên gối hoàng lương;
Sự nghiệp một câu,
Lấp lửng trong gương bạch phát.
5. Khắp chùa miễu cây hương cầu nòi giống,
Nghĩa cha con, nghĩa đã đặng tròn;
Trùm non sông lời nói để ghi lòng,
Tình chồng vợ, tình đâu ở bạc!
6. Thừa ưa cắp một gậy thiền;
Bỗng chốc bẻ hai gương nhạc,
7. Xiết bao đường sá xa xôi;
Thêm nỗi cửa nhà man mác!
8. Đau đớn thay! một cụm tàn huyên;
Ủ ê bấy! hai cành hoa ngạc,
9. Ngoài bảy chục xuân thu,
Còn thêm nữa: vó câu qua cửa,
Khôn rõ nỗi xa gần;
Trong ba ngàn thế giới,
Biết bao nhiêu dấu thỏ lên đèo,
Khó lường nơi sống thác,
10. Tu gặp chùa nghèo;
Chơi lầm cảnh khác.
11. Sớm hôm chuông mõ,
Xưa am mây đã chót nhọc nhằn;
Ngày tháng tương dưa,
Nay rừng bụi ai cùng mặn lạt?
12. Làng Trà thạch, đá buông lời nói khống,
Biết đâu tìm dấu Như Lai;
Đất châu Khê, hoa chảy nước mắt đầm,
Khó nỗi hỏi tin Bồ Tát.
13. Phải gặp thuở qua miền Đông độ,
Rước cha trở lại,
Trong nhà cũng có thích Già;
Nào ai biết tới cõi tây phương,
Xin cha lộn về,
Ở nước há không Di Lặc?
14. Hộ; là cậy, mất cha nào cậy,
Muốn hỏi han mà cửa Phật vắng hiu;
Ai; là thương, thấy mẹ thêm thương,
Luống trong nhớ, mà tuổi trời nặng vác.
Hỡi ôi!
15. Sang giàu một giấc,
Mây nổi hoa tàn;
Sự nghiệp trăm năm,
Nước xao, bèo dạt!
16. Đã biết: cha nghề nào, con nghề nấy,
Mới phải nhân tình;
Há ngờ cha đường nọ, con đường nầy,
Cũng vì thiên các...
17. Vái Phật mở câu giới cấm,
Hưởng cô nhi mấy tiệc cỗ bàn;
Nhờ vua đặng chữ vinh qui;
Xin hiển khảo dùng thoi vàng bạc.


Đọc rồi văn tế linh cha,
Một môn già trẻ, đều hoà khóc than,
Vô, ra, dù, võng, nhộn nhàng,
Đãi đàng trên dưới cỗ bàn, no say.
1585. Tiệc mửng vừa đủ mười ngày,
Tần khanh sai kẻ lễ bày đính duyên.
Mừng cho hai rể đặng tiên
Ngàn năm tiếng rạng, danh biên thẻ ngà.
Hai chàng Bảng nhãn, Thám hoa,
Khiến người lên tạ nhạc gia ơn, rồi.
Lương duyên hai chữ thêm giồi,
Trần Đoan vừa tới lo bồi nghinh hôn.
Đỗ nương vâng lịnh công môn,
Chờ ngày giờ tốt nghinh hôn đem về.
1590. Sửa sang sáu lễ nên xuê,
Họ hàng mới nhóm, toan về phụng chiêm.

Hay đâu trăng tỏ mây êm,
Hằng ga núp bóng cung Thiềm bạc sao!
Hỏi đôi chén ngọc chờ trao,
Dương Trân nhuốm bịnh liền đau thương hàn,
Trong nhà lo việc thuốc thang,
Rước thầy hay trị, ngày càng ốm hư,
Tần Khê có dạ ưu tư,
Ra tờ khắp chốn cầu sư tới liền.

1595. lối này tới cảnh người tiên,
Nơi chùa Linh diệu ở miền Thiên thai.
Dương Từ, Hà Mậu hoà hai,
Bấy lâu ở chốn Quỳnh đài dạo chơi,
Theo tiên hầu nửa tháng trời,
Tấm lòng rửa sạch, việc đời lãng xao.
Lão Nhan coi số Thiên tào,
Đòi hai người vào, nói chuyện trần duyên.
Rằng: Hai họ có căn duyên,
Trời đà trước định, kết nguyền thân gia.
1600. Rày nên sum hiệp một nhà,
Con trai, con gái, thảy đà thành thân.
Họ Hà nghe nói hỏi phăng,
Rằng tôi đi khỏi mới gần nửa trăng.
Trong nhà hai gái còn măng,
Tuổi trời chưa mấy, sao rằng thành thân?
Đáp rằng trên dưới có phần,
Non tiên một bữa, cõi trần một năm,
Toán theo giáp tý thời lầm,
Tuyết, Băng nay đã mười lăm tuổi rồi.
1605. Đạo trời đã biết thời thôi,
Hai người khá kíp phản hồi cố hương,
Lão Nhan làm phép thâu đường,
Cho hai hoàn thuốc cứu chàng Duiuơng Trân,
Hai người về cõi hồng trần,
Sang giàu chung hưởng nhờ phần lộc con,
Lộc con là lộc trời còn,
Nhân luân hai chữ vuông tròn mới an.

Hai người từ biệt Lão Nhan,
Ra nơi Vân động, theo đàng ngày xưa.
1610. Tri Niên họ lý theo đưa,
Dùng dằng cửa động còn chưa chỉ đường,
Rót ra hai chén quỳnh tương,
Rằng xin gượng uống về đường cho an,
Từ đây xuống chốn dương gian,
Non tiên xa cách khôn đàng trở lên.
Gặp nhau biết lấy chi đền,
Chút duyên bèo nước nào quên tình nầy,
Ngàn năm bóng gió ở đây,
Riêng than chim nhạn rẽ bầy kêu xa,
1615. Vội vàng nào kịp hái hoa,
Dương quan cành liễu gọi là đưa nhau,
Của đưa nào báu chi đâu,
Sao bằng mùi đạo tám câu năm vần.
Ta xin bắt chước cổ nhân,
Gọi thơ đua bạn dương trần ngày nay.

Thơ Đưa Hà Mậu:
Long môn chốn cũ lại bôn ba,
Non nước bâng khuâng cám họ Hà.
Nước Thánh năm đời loà mắt tục,
Rượu tiên một thuở rửa lòng tà,
Đào nguyên khó hẹn tin bèo nhóm,
Vân động riêng buồn tiếng hạc xa,
Khôn, dại, sự đời ngươi đã thấy,
Nên mình rồi phải giúp người ta,


Thơ Đưa Dương Từ:
Thiên thai xa cách cõi Nam khương,
Hoa cỏ ngùi ngùi cám họ Dương,
Chùa Phật khôn cầm cây lão mại,
Động tiên xin chuốc chén quỳnh tương.
Chút tình bóng gió riêng cưu bạn,
Mấy dặm non sông vôi tách đường.
Đói lạnh dấu xưa ai cũng biết,
Ngưoi về, nhà, nước, hiếm người thương


Dương Từ, Hà Mậu nghe thơ,
Than rằng: Nào biết bao giờ gặp nhau!
Cuộc đời là cuộc bể dâu,
Nước về doành thẳm, khôn cầu nguồn xưa.
1620. Nói thôi nước mắt như mưa,
Tri Niên chỉ nẻo quê xưa đành rành,

Thâu đàng nhờ có phép linh
Một ngày một ngọ, hồi trình chẳngxa
Dương Từ về đến quê nhà,
Đoái nhìn cảnh vật thấy ra lạ lùng.
Ngẩn ngơ đứng trước bình phong,
Minh nghi chưa dám vào trong công đường.
May đâu lại có Đỗ nương,
Dạo chơi ra cửa nhìn tường phu quân.
1625. Hai hàng nước mắt rưng rưng,
Nửa thương việc trước, nửa mừng ngày nay,
Dương Từ lấy thuốc tiên hay,
Cho Dương Trân uống, kịp ngày lành mau.
Cha con chồng vợ gặp nhau,
Hỏi, phô, chuyện vãn, trước sau tỏ tình.
Gần xa đều tới thăm mình,
Coi đi tu đã nên hình Phật chi?
Mười lăm năm bỏ nhà đi,
Nợ oan gia lại khéo ghì vào đây.
1630. Nàng rằng: Từ ấy những nay,
Nghĩ trong phận thiếp liền ngày luỵ tuôn.
Xiết bao gió chớp mưa luồn,
Chất sầu làm gối, nấu buồn làm cơm.
May nhờ hai trẻ danh thơm,
So bề nhà cửa đặng nờm nở ra,
Phải con chơi vụt theo cha,
Ôi thôi! thân mẹ cũng ra ăn mày,
Cho hay một trả một vay,
Am mây đã trốn còn đày đi xa,
1635. Đói thời phổ khuyến người ta,
Tương chua, cơm hẩm, gọi là ăn chay,
Coi chim quành quạch thời hay,
Theo cây trái chín ăn chay đời đời.
Bay đâu cho khỏi dưới trời,
Tiếng kêu quành quạch già đời ra chi?
Chỉn rằng vận có thạnh suy,
Người đời sao khỏi hiệp ly lẽ thường.
Bằng nay sum hiệp nhất đường,
Hai con dâng lễ thọ trường cho vui,
Trong nhà quan khách tới lui bộn bề.

Đoạn này Hà Mậu ra về,
Long môn đất ấy, quán quê xưa rồi.
Trạc nhìn nhà cửa hỡi ôi!
Ngói chài, nóc sập, vách vôi gạch nhào,
Ổ vò lưới nhện lao xao,
Trước sân cỏ lán, ngoài rào ngả xiêu.
Vợ con dấu trước vắng hiu,
Bếp còn ốc để, thềm nhiều dế ngâm,
1645. Họ Hà thấy vậy động tâm.
Hai hàng nước mắt ra dầm chéo khăn,
Chưa hay duyên cớ sao rằng,
Tới nhà em gái hỏi phăng sự tình.
Mới hay rằng việc bất bình,
Liễu thơ trước dã bỏ mình về quê,
Tuyết, Băng, hai gái đương xuê,
Ở cùng quan Trấn, bỏ nghề gia tô.
Mậu rằng: Hai trẻ cải đồ,
Thật trời xui khiến còn mồ mả sau.
1650. Cám thương họ Liễu thác mau,
Vợ chồng chẳng gặp theo nhau buổi nầy,
Phải chi đặng sống lại đây,
Theo ta tránh khỏi chó Tây ăn hồn.
Bà con dòng họ một phồn,
Nghe lời nói lạ, tới dồn hỏi xăng.
Mậu rằng: Nói việc Hà Năng,
Cho con cháu biết, kẻo rằng đạo hay
Đốt nhiều vàng bạc thời may.
Vái ông khỏi mắc ăn mày âm cung,
1655. Ai ai nghe cũng não nùng,
Đều lau nước mắt khôn cùng thở than.

Tiếng đồn ra khắp các làng,
Châu Kỳ tới viếng, hỏi han việc đời,
Kỳ rằng: Muốn thấu đạo trời,
Mười lăm năm trọn nối hơi đến giờ,
Đã đành dấu trước bơ vơ,
Đuốc xao vì gió, trăng lờ bởi mây.
Vì ai nên cớ sự nầy,
Còn mang thập ác một cây cầu gì!
1660. Đội ơn anh có công đi,
Phải, chăng, đã thấy, còn nghi lẽ nào.
Ví như một giấc a giao,
Mấy nguồn nước đục lòng vào đều tyrong.
Mậu rằng: Nói lại đượm lòng,
Một môn tả đạo cũng dòng dõi nhăng.
Nay ta cứ gốc mà phăng,
Theo đường nhân nghĩa, chi bằng đạo nho.
Trời sanh có một đạo nho,
Ngàn nghề muôn nghiệp đều lò ấy ra,
1665. Cứ theo đơm quảy ông bà,
Quỉ thần chẳng giận, mồ ma không hờn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Dạy đời con cháu đội ơn thánh hiền,
Từ đây hai họ đều truyền:
Bao nhiêu tả đạo đều nguyền đốt kinh.

Phút đâu quan Trấn hay tình,
Đòi Hà Mậu tới hỏi minh mọi lời.
Tuyết, Băng, hai gái nhờ trời,
Cha con vầy hiệp mọi nơi vuông tròn,
1670. Cho hay người cách nước non,
Thác thời mất dấu, sống còn gặp nhau.
Tần Khanh gạn hỏi đuôi đầu,
Họ Hà thưa việc trước sau tỏ tường,
Liền sai quan huyện Nam khương,
Dạy Trần Đoan rước họ Dương đem về.
Yến diên thết đãi phủ phê,
Cùng nhau bàn luận mọi bề phải chăng.
Việc trong trời đất, mấy tầng,
Thấy đâu nói đó, nào từng có quên.
1675. Dương Từ, Hà Mậu hai tên,
Tần Khanh dâng sớ tâu lên cửu trùng.
Tấn vương xem sớ lạ lùng,
Chỉ đòi nội vụ thảy cùng lai kinh.
Tần Khanh vâng chỉ lai kinmh,
Cha con hai họ sửa mình đều đi,
Tấn vương ngự trước đan trì,
Cho vào ra mắt một khi xem tường,
Tả biên quì tấu họ Dương,
Anh em Trân, Bửu, hai chàng tân khoa
1680. Hữu biên qùi tấu họ Hà,
Chị em Băng, Tuyết, nết na dịu dàng,
Tấn vương phán trước ngai vàng,
Dương Từ, Hà Mậu có công,
Chín Trời, mười Đất, đi thông,
Tìm ra mối đạo, trong lòng mới an.
Bấy lâu chuộng thói dị đoan,
Đến nay mới biết lầm đường đi xa,
Có lòng qui chánh, cải tà,
Trời liền cho phước, sanh ra con hiền.
1685. Thêm giồi hai chữ lương duyên,
Song sanh đôi tốt, phỉ nguyền giài sang,
Việc này giao lại Trấn quan,
Chủ hôn hai họ, ch an việc nhà,
Con hiền là báu nước nhà,
Đáng biên vào sử để ra khuyên đời.
Tấn vương dụ xuống khắp nơi,
Cấm theo đạo Phật, đạo trời, chẳng nên.
Dụ rằng: “Đất dưới, Trời trên,
“Giữa là kẻ thế, bốn bên Mọi, Lào,
1690. “xưa nay chẳng đặng hỗn hào,
“Xứ ai nấy ở, loại nào nấy theo,
“Coi công: lưỡng quốc tương triều,
“Đường đi cách trở, hãy nhiều non sông.
“Cớ sao mình ở nước Trung,
“Lòng theo nước ngoại, còn mong đợi gì.
“Ông bà mồ mả bỏ đi,
“Gốc mình chẳng kỉnh, lại vì gốc ai?
“Cửa nhà làng xóm cách ngoài,
“Phận gần chẳng đoái, đoái hoài phận xa,
1695. “Quan dân đều nói tiếng ta,
“Chẳng hơn chim, chuột tới nhà líu lo.
“Đàn bà giữ tiết thơm tho,
“Chẳng hơn dê, chó chung lò tanh hôi.
“Người khôn thấy cũng biết rồi,
“Có đâu vượt phép, đổi ngôi xô bồ.
“Ai còn về đạo Gia-tô,
“Cùng là đạo Phật, tội đồ chẳng tha.
“Cứ theo một đạo nho ta,
“Giữ câu lễ nghĩa, muôn nhà an vui.”

1700. Tấn vương dụ xuống cấm rồi,
Tần Khanh dâng sớ xi hồi Hà đông.
Tấn vương ngự đến đền rồng,
Bạc vàng gấm vóc thưởng công Dương, Hà,
Làm thơ ngự chế ban ra,
Tặng cho hai họ vinh hoa một đời.

Thơ Tặng Dương Từ:
Chùa sãi nào hơn gã họ Dương,
Đi tu mà biết lẽ du phương,
Gậy thiền dầu tránh nơi tiên động,
Rượu lão đâu say chỗ Phật đường.
Thế tục lắm người con mắt thịt,
Phong trần mấy kẻ tấm lòng gương,
Việc trong trời đất: nên, hư, thấy,
Nào để dân ngu phải lỗi đường.


Thơ Tăng Hà Mậu:
Qua bếp nên khen gã họ Hà,
Năm đời còn biết lẽ ngay tà,
Ra đi chẳng nại đường trời đất,
Chớ lỗi câu nào việc mẹ cha.
Dối thói man di vì nỗi trẻ,
Nghĩ ơn thuỷ thổ cám cho già,
Một người tìm đạo, muôn người thấy,
Bia để ngàn năm tiếng nước nhà,


Khiến nêu thơ ấy; hai người,
Có công giúp nước, để đời xem trông,
Hai người dưng biểu đền rồng,
Đem nhau về trấn hà đông rỡ ràng,
1705. Tần Khanh về kíp sai quan,
Ra Long môn quận sửa sang cửa nhà,
Dựng nên lương đống một toà,
Ơn vua sửa dựng, nêu ra cột cờ.
Tần Khanh liền luận ngày giờ,
Dương, Hà hai họ viết thơ đính kỳ,
Phu nhân lòng rất yêu vì,
Sắm cho hai gái vinh qui về làng.
Trong mình đã đủ nữ trang,
Lại thêm của báu lịnh ban thiếu gì,
1710. Cửa nhà rực rỡ ai bì,
Hai con vầy ở, đợi kỳ tống hôn.
Xui nên một huyên Long môn,
Bà con nội ngoại khen đồn tiếng xa.
Ngẫm xem trong cửa họ Hà,
Người sang khách trọng vô ra dập dều,
Trời trao lộc tốt làm nêu ở đời.
Tới ngày tháng sáu hai mươi.
Họ Dương sắm lễ, nhóm người nghinh hôn.

1715. Nam khương qua đến Long Môn,
Đường đi mười bữa, cầu hôn xa vời.
Tần Khanh trước đã vâng lời,
Kiệu tân rần rộ đền nơi họ Hà,
Họ Dương lễ cưới họ Hà,
Hai trai hai gái một nhà thành thân.
Sánh đôi: Xuân Tuyết, Dương Trân,
Thu Băng, Dương Bửu, cân phân vợ chồng.
Đuốc hoa chén ngọc song song,
Trướng loan gối phụng động phòng thêm xuân.
1720. Ba ngày liền mở tiệc mừng,
Khắp nơi châu huyện đều dâng liễn đầy,
Người lui kẻ tới dầy dầy,
Gia tô, thầy sãi cũng vầy coi chơi,
Cùng nhau bàn bạc một lời,
Đã ưng bỏ đạo Phật, Trời, theo nho.
Theo nho trên hưởng phước to,
Phấn vua giồi mặt nào lo phận hèn,
1724. Cho hay công ở sách đèn,
Trải xưa nay cũng tiếng khen còn đời.