35.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 26/07/2005 13:06

Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga,
Hà khê phủ ấy theo cha học hành,
Kiều công lên chức Thái khanh,
Chỉ sai ra quận Đông thành chăn dân.
Ra tờ khắp hết xa gần,
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi,
1271. Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi Lục Vân Tiên,
Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
Thưa rằng: “Nghe tiếng đồn vang,
“Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.
“Biệt tin từ ấy nhẫn nay,
“Phút nghe người nói châu mày lại thương!”
Kiều công trong dạ bàng hoàng,
Trở vào nói lại cùng nàng Nguyệt Nga:
1281. “Lục ông nói lại cùng cha,
“Duyên con rày đã trôi hoa dạt bèo.”
Riêng than chút phận tơ điều,
Hàn giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi!
Nàng rằng: “Phải thiệt như lời,
“Xin cha sai kẻ mời người vào trong.”
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng.
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: “Nào bức tượng xưa?
“Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn.”
1291. Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chưn vóc vạc đều in con mình.
Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
“Thương con phận bạc lắm thay,
“Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu?”
Kiều công chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:
“Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
1301. “Người đời như bóng phù du,
“Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.
“Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,
“Cũng chưa nên nghĩa tao khang đâu mà.
“Cũng như cửa sổ ngựa qua,
“Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền?”
Nàng rằng: “Trước đã trọn nguyền,
“Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ.”
Công rằng: “Chút nặng tình xưa,
Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
1311. Lục ông cáo tạ xin lui:
“Tôi đâu dám chịu của người làm chi?
“Ngỡ là con trẻ mất đi,
“Hay đâu cốt cách còn ghi tượng nầy.
“Bây giờ con lại thấy đây,
“Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?.”
Ngửa than: “Đất rộng trời cao,
“Tre còn măng mất lẽ nào cho cân.”
Lục ông từ tạ lui chân,
Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang.
1321. Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,
Năm canh luỵ ngọc xốn xang lòng vàng.
Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu.
Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất, trời ôi là trời!
Thuở xưa giữ dạ ghi lời,
Thương người quân tử biết đời nào phai?
1331. Tiếc thay một dự anh tài,
Việc văn, việc võ nào ai dám bì?
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!
Thương vì hai tám trên đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chẳng đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
Vùa hương bát nước ai dành ngày sau?
1341. Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là?
Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
Khuyên rằng: “Con chớ cưu mang,
“Gẫm trong còn mất là đường xưa nay.
“Đàn cầm ai khéo dứt dây,
“Chẳng qua con tạo đổi xây không thường.”
1351. Nàng rằng: “Khôn xiết nỗi thương,
“Khi không gãy cánh giữa đường ai hay.
“Nay đà loan phụng rẽ bầy,
“Nệm nghiêng gối chích phận nầy đã cam.
“Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
“Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người.
“Thân con còn đứng giữa trời,
“Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi.”
Kiều công trong dạ chẳng vui:
“Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?”