Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu » Ngư Tiều y thuật vấn đáp
Đăng bởi Vanachi vào 12/11/2005 17:35
Thơ rồi Ngư mới hỏi Tiều:
Việc nhà con vợ ít nhiều đặng hay?
Tiều rằng: Triền rất chẳng may,
60. Năm lần cưới vợ, còn nay một người.
Nằm hoài biếng nói, biếng cười,
Rề rề đau máu, da tươi bàu nhàu.
Bốn người trước thác theo nhau,
Người đau sản hậu, người đau thai tiền,
65. Khiến thêm nghèo khổ cho Triền,
Bán bao nhiêu củi về tiền thuốc thang,
Thầy hay thời ở xa đường,
Tin theo thầy tục, giúp phương hại người.
Ngư rằng: Phược cũng như người,
70. Hôm mai lận đận về mười đứa con.
Chí lăm nuôi đặng vuông tròn,
Chung tư trập trập, nhà còn phúc ghi.
Nào hay tạo hoá tiểu nhi,
Rủ bầy con nít đều đi bỏ mình.
75. Đứa thời đau chứng cấp kinh,
Đứa thời cam tích, bụng bình rĩnh ra,
Đứa thời hai mắt quáng gà,
Đứa thời túm miệng, khóc la rốn lồi,
Đứa thời đau bụng lãi chòi,
80. Đứa thời iả kiết, rặn lòi trôn trê,
Đứa thời sài ghẻ, nóng mê,
Đứa thời hoa trái, độc về hông, vai.
Rủ nhau thỉnh thoảng chết hoài,
Đứa đôi ba tháng, đứa vài ba năm.
85. Trời đà hao tốn tiền trăm,
Thương con chạy bậy, lầm nhằm thuốc nhăng.
Đến nay còn sót hai thằng,
Nhờ trời khoẻ mạnh, đặng ăn chơi thường.
Cảm ơn kẻ sĩ du phương,
90. Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y lâm.
Thê Triền nghe nói mừng thầm,
Hỏi rằng: Thầy ở Y lâm tên gì?
Ngư rằng: Chưa biết tên chi,
Nghe người nói đó là kỳ Nhân Sư.
95. Tiều rằng: Chữ gọi Nhân Sư,
Tiên hay là Phật, bậc gì công phu?
Ngư rằng: Vốn thật thầy nhu (nho),
Lòng cưu gấm nhiễu, lại giàu lược thao.
Nói ra vàng đá chẳng xao,
100. Văn ra dấy phụng, rời giao tưng bừng.
Trong mình đủ chước kinh luân,
Thêm trau đạo đức, mười phân rõ ràng,
Chẳng may gặp thuở nước loàn,
Thương câu “dân mạc” về đàng Y lâm.
105. Ẩn mình chôn ngọc, vùi câm (kim),
Người con mắt tục coi lầm biết đâu.
Ta nhân bệnh trẻ đi cầu,
Có nghe du sĩ đọc câu thơ rằng:
Du sĩ độc nhân sư thi:
Xe ngựa lao xao giữa cõi trần,
Biết ai thiên tử, biết ai thần?
Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng,
Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân!
Khoẻ mắt Hi Di trời ngũ quý,
Mỏi lòng Gia Cát đất tam phân
Công danh chi nữa, ăn rồi ngủ,
Mặc lượng cao dày xử với dân.
Tiều rằng: Mừng gặp hiền nhân,
110. Nghe bài thơ ấy, thật trân bảo đời!
Bấy lâu những tưởng không người,
Nào hay hang trống còn dời tiếng rân.
Thi danh trước có Đường thần.
Tài như Lý, Đỗ muôn phần khá thương.
115. Thấy nay cũng nhóm văn chương,
Vóc dê, da cọp khôn lường thực hư,
Tiếc thay đời có Nhân Sư,
Lại theo bốn chữ “vô như chi hà”.
Nhớ xưa tiếng đại hiền ra,
120. “Rằng trời muốn trị, bỏ ta, ai dùng?”
Thôi thôi ngươi hãy gắng công,
Đem ta tới chỗ, học cùng Nhân Sư.
Ngư rằng: Nhắm chốn Đan Kỳ,
Éo le khúc nẻo, đường đi chẳng gần.
125. Nhiều non, nhiều núi, nhiều rừng,
Nhiều đèo, nhiều ải, nhiều chừng động hang.
Chút công khó nhọc chẳng màng,
Phần lo hóc hiểm một đàng Nhân Khu.
Nhân Khu ải ấy ở đầu,
130. Nẻo lành, nẻo dữ, cạn sâu khôn lường.
Tiều rằng: Ta dốc tìm phương,
Xin phân cho rõ cái đường Nhân Khu.
Ngư rằng: Một ải Nhân Khu,
Lấy da bao thịt, làm bầu hồ lô.
135. Trở thông chín nẻo ra vào,
Mười hai kinh lạc chia đào dọc ngang.
Ngoài thời sáu phủ Dương Quan,
Trong thời năm tạng, xây bàn Âm Đô.
Hai bên tả hữu vách tô,
140. Có non nguyên khí, có hồ huyết quan.
Có nơi hồn phách ở an,
Có ngôi thần chủ, sửa sang việc mình.
Rước đưa có đám thất tình,
Có vườn ngũ vị nuôi hình tốt tươi.
145. Lại nghe du sĩ trao lời,
Rằng trong ải ấy lắm nơi hiểm nghèo,
Có làng Lục Tặc nhóm theo,
Chia phần đón ngách, giữ đèo Tam Thi.
Hôm mai rũ quến nhau đi,
150. Xui lòng nhân dục, nhiều khi lang loàn,
Hoặc theo bên động Bì nang,
Thắm trêu hoa mẫu mơ màng gió xuân.
Hoặc theo bên động Tôn Cân,
Nhem thèm cho sãi về dân, bỏ chùa,
155. Thêm bầy quỉ quái theo lùa,
Nhóm non Thập Ác, tranh đua khuấy đời,
Ngửa xem ngoài cửa sáng giăng,
190. Thấy trên biển ngạch chữ rằng “Tam Công”.
Bước vô trong miếu lạnh lùng,
Thấy treo ba bức song song hoạ đồ.
Nhân Sư ngồi giữa xem đồ,
Thấy ta han hỏi, dở hồ linh đan.
195. Lấy ra thuốc đỏ hai hoàn,
Cho về cứu trẻ khỏi cơn tai nàn.
Ta nhân một thuở vội vàng,
Gặp thầy chưa kịp hỏi han việc gì.
Tiếc thay đã đến Đan Kỳ,
200. Mùi thơm chưa dính chút chi vào mình.
Tiều rằng: Xin hỏi nhân huynh,
Trước quen du sĩ, tính danh cũng tường?
Ngư rằng: Kẻ sĩ du phương,
Tên Châu Đạo Dẫn, đem đường cho ta.
205. Đang khi bối rối việc nhà,
Nào rồi hỏi việc trải qua cùng chàng.
Chỉ nghe Đạo Dẫn thở than,
Rằng bầy Lục Tặc, biết toan lẽ nào!
Tiều rằng: Lục Tặc làm sao?
210. Xin phân sáu ấy, âm hao cho rành,
Ngư rằng: Tai mắt nhiều tinh,
Tai tham tiếng nhạc, mắt giành sắc xinh.
Mũi thời tham vị hương hinh,
Miệng thời tham béo, ngọt, thanh, rượu, trà,
215. Vóc thời muốn bận sô sa,
Bụng thời muốn ở cửa nhà thếp son.
Cho hay Lục Tặc ấy còn,
Khiến con người tục lần mòn hư thân.
Tiều rằng: Nghe tiếng ngọc phân,
220. Chạnh lòng muốn tách cõi trần chơi mây.
Phải chi gặp Đạo Dẫn đây,
Ta xin theo dấu, tìm thầy Nhân Sư.
Ngư rằng: Phược nguyện đem đi,
Anh về sắm sửa lễ nghi sẵn sàng.
225. Vả nay vừa tiết xuân quang,
Hẹn năm ngày nhóm hành trang cho rồi
Thê Triền từ tạ, chân lui,
Về nhà thấy vợ ngùi ngùi đau rên,
Nhờ ơn nhạc mẫu ở bên,
230. Dặn dò gửi vợ, lại lên họ Bào.
Thứ này hai họ nghĩa giao,
Sắm đồ hành lý những bao, những hồ.
Bao thời đựng cá tôm khô,
Hồ thời đựng rượu, trường đồ thẳng xông,
235. Trải qua bờ liễu, non tùng,
Trời hiu hiu thổi gió đông đưa mình,
Mặt nhìn trong tiết Thanh minh,
U Yên đất cũ, cảnh tình trêu ngươi,
Trăm hoa nửa khóc nửa cười,
240. Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ cây gie nhánh đón đường,
Như tuồng níu hỏi Đông hoàng ở đâu?
Bên non đá cụm cúi đầu,
Như tuồng oan khúc, lạy cầu cứu sinh.
245. Líu lo chim nói trên cành,
Như tuồng kể mách tình hình dân đau.
Gió tre hiu hắt theo sau,
Như tuồng xúi dục đi mau tìm thầy.
Dưới non suối chảy kêu ngầy,
250. Như tuồng nhắn hỏi sự này bởi ai?
Hai người nhìn thấy than dài,
Cho hay non nước nhiều loài trông xuân,
Mưa sầu gió thảm biết chừng nào thanh!
255. Mảng xem cảnh cũ thương tình,
Nào hay lạc nẻo lộ trình ải xưa.
Cùng nhau ngơ ngẩn ngày trưa,
Lại may gặp bạn cỡi lừa ngâm thơ.
Hai người dừng gót đứng chờ,
260. Lắng nghe du sĩ lời thơ ngâm rằng:
Trời đông sùi sụt gió mưa tây,
Đau ốm lòng dân cậy có thầy,
Phương cũ vua tôi gìn trước mắt,
Mạng nay già trẽ gửi trong tay.
Trận đồ tám quẻ còn non nước,
Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.
Hỡi bạn Y lâm ai muốn hỏi,
Đò xưa bến cũ có ta đây.