Năm 1989, Nhà xuất bản Khoa học - xã hội có in mẫu truyện ngắn của tôi (cùng một số truyện của Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh v.v... thời kỳ 1930 - 1945). Bởi thấy còn nhiều người muốn hiểu rõ hơn về T.T.Kh, tôi đã đưa in lại truyện ngắn
Hoa ti-gôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo
Tiểu thuyết thứ bảy - truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T.T.Kh. nên sau đó toà soạn
Tiểu thuyết thứ bảy đã nhận được mấy bài thơ của T.T.Kh. gửi đăng liền được dư luận bạn đọc đương thời chú ý.
Sự thật, ngày nay truyện ngắn và thơ tình như của Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, hay lắm chứ, nhưng tại sao từ 1937 đến nay vẫn còn người nhắc đến T.T.Kh?
Cuối năm 1989, một người bà con ở Canada đã gửi thư cho tôi nhờ chép lại mấy bài “thơ cũ” ấy. Và cũng vào dịp đó, tôi được nghe một băng ghi giọng ngâm thơ T.T.Kh. của một bà Hà Nội, nay là kiều bào ở Paris. Mới biết, nỗi bất hạnh của con người, điều ngang ngửa trong chuyện tình duyên đôi lứa, thời nào cũng gây được sự đồng cảm của người đồng loại... Và từ trước tới nay, người đọc các báo
Nhân dân,
Văn nghệ, sách Nhà xuất bản Văn học (Thơ Thâm Tâm) vẫn lại thấy có người tranh cãi về T.T.Kh.
Vậy T.T.Kh. là ai?
Có phải là Trần Thị Khánh? Hay Tào Thị Khê? Hay Tôn Thị Khuê? Trần Thị Khải, Thái Thị Khương? Ai mà biết được. Cho nên cuối bài truyện ngắn
Hoa ti-gôn in lại năm 1989, tôi đã phải viết: “T.T.Kh. là ai? Lúc trước (1937), tác giả đã không cho biết địa chỉ, cũng như không chịu “xuất đầu lộ diện” cho tới ngày nay, nếu còn sống T.T.Kh. phải là lớp “cổ lai hy” rồi. Vậy nên quý trọng sự khiêm tốn của nhà thơ, hẳn có lý do “ẩn tích” của mình.
Viết như vậy, đâu có ổn. Như thế khác gì người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ, rồi ra về. Nhưng bạn đọc yêu thơ lại đòi hỏi khác. Người ta muốn biết T.T.Kh. đã vì ai, cho ai mà có thơ? Và người yêu T.T.Kh. có đích thị là Thâm Tâm, hay Nguyễn Bính, hay ai nữa...?
Năm 1986, anh Tô Hoài (trong bài viết về Trần Huyền Trân, đăng tuần báo
Văn nghệ, số 45 tháng 11, 1986) cũng lại nhắc: “Câu chuyện tình u uẩn mà nhiều báo một thời bàn tán sôi nổi, nào
Hai sắc hoa ti-gôn”, nào T.T.Kh., nào Thâm Tâm và Khánh hay là ai? Những éo le mơ hồ, các anh Thanh Châu, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính - những đồng tác giả ấy - hôm nay cũng còn có bạn có thể kể lại rành rõ được, hay là cứ để mờ ảo mãi như thế...”
Hôm nay, nhân tìm lại những tư liệu còn giữ được, tôi muốn kết thúc cái chuyện cũ càng “mờ mịt” này bằng cách công bố thêm một điều lạ, là “thủ phạm” của sự “nhiễu” này, khiến thiên hạ càng đoán phỏng, đoán mò - chỉ tại Nguyễn Bính đã đăng một bài thơ (đề tặng T.T.Kh.), bài
Cô gái vườn Thanh in năm 1940. Đọc lại bài thơ này, người ta thấy Nguyễn Bính có đến Vườn Thanh, trọ nhà một ông già, ông này kể cho nghe chuyện một thiếu phụ cũng “đêm đêm bên cạnh chồng già - bên cạnh bóng người xa hiện về”...
Và rồi Nguyễn Bính tự hỏi:
Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa?
Phải chăng, mình có nên ngờ
Rằng người năm ngoái bây giờ là đây?
Một người thơ đa tình như Nguyễn Bính: “Chuyện xưa hồ lãng quên rồi - Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh... (tức T.T.Kh)” bèn ra thơ đề tặng T.T.Kh (cô gái vườn Thanh) người mà Nguyễn Bính chưa hề biết mặt. Bởi vậy, có người đã khẳng định - sau khi đọc bài thơ của Nguyễn Bính - rằng: “Chính ông Bính là người yêu của T.T.Kh. rồi làm thơ người ta tế nhị nói chuyện nọ ra chuyện kia - như thi sĩ Ac-ve đã kín đáo trong thơ của ông ta vậy”.
Người thứ hai, làm cho mọi người gần hơi thoả mãn, chính là Thâm Tâm, khi có bài
Màu máu ti-gôn (gửi T.T.Kh., tác giả bài thơ
Hai sắc hoa ti-gôn):
Người ta trả lại cánh hoa tàn
Thôi thế duyên tình cũng dở dang
Màu máu ti-gôn đà biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang.
K. hỡi, người yêu của tôi ơi!
Nào ngờ em giết chết một đời
Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ
Hình ảnh em hoài, mãi thế thôi!
“Quên làm sao được thuở ban đầu
Một cánh “ti-gôn” đã khắc sâu
Một cánh hoa xưa màu hy vọng
Nay còn dư ảnh trái tim đau
Anh biết làm sao được hỡi trời
Dứt tình bao nỡ, nhớ không thôi
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời...
Theo tôi, đây là một bài thơ dở nhất, không xứng với Thâm Tâm, mặc dù tác giả nói rõ là “K... hỡi, người yêu của tôi...”. Đến nay, tôi không hiểu bài thơ này in ở đâu? Lấy ở đâu ra, sau này lại do Mã Giang Lân tuyển in vào tập
Thơ Thâm Tâm (do Nhà xuất bản Văn học in năm 1988, mà không đề năm tháng?) Liền sau bài
Màu máu ti-gôn này, nói là của Thâm Tâm “tặng T.T.Kh.” lại thêm bài
Các anh như sau (cũng ở tập Thơ Thâm Tâm nói trên):
Các anh hãy chuốc thực say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm
Lòng đau đau lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi
Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch nhiều.
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài hoa máu đã gieo nốt đời
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay...
(Bài này ghi: 1940)
Cũng may, với sự nghi ngờ: “Có thể hai bài thơ trên là thơ dỏm”) lời thơ thô vụng, không chắc của Thâm Tâm, tôi đã tìm đến ông Phạm Quang Hoà, nghe nói ông trước kia có làm thơ, và quen thân với Thâm Tâm, còn giữ được nhiều thơ cũ. Ông Phạm Quang Hoà đã chép cho tôi một bài giống như bài
Các anh nói trên. Nhưng theo ông Phạm Quang Hoà thì đây là bài thơ Thâm Tâm trả lời T.T.Kh., sau khi có
Bài thơ cuối cùng của T.T.Kh. đăng báo
Tiểu thuyết thứ bảy (?).
Bây giờ xem lại thì bài này dài gấp mấy lần bài
Các anh. Chỉ đúng có 8 câu đầu là của bài
Các anh tiếp theo còn 47 câu thì bỏ, để lại bắt vào đoạn cuối của bài
Các anh với 7 câu kết (như trong bài
Các anh).
Vậy thì Mã Giang Lân đã lấy ở đâu ra bài
Các anh (đã in ở sách
Thơ Thâm Tâm nhà xuất bản Văn học - 1988)? Với vẻn vẹn có 16 câu? Nếu trích ở đâu sao không nói rõ?
Về ông Phạm Quang Hoà, ta có thể tin ông là bạn thân của Thâm Tâm, nên mới có
Bài thơ trả lời T.T.Kh. của Thâm Tâm mà ông giữ được đến nay. Nhưng sao đọc những câu như:
Tiếng xe mở lối vu quy
Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời
Miệng chồng KHÁNH gắn trên môi
Hình anh, mắt KHÁNH sáng ngời còn ghi...
KHÁNH ơi, còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên...
Rõ ràng lời thơ không xứng đáng với mối tình tha thiết và cay đắng của một thiếu phụ như T.T.Kh. đã giữ hẹn xưa:
Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ...
Trong khi đó, “người đàn ông của mình” cứ bô bô réo tên mình lên trong thơ, hết K... ơi, lại Khánh ơi? Đến nỗi T.T.Kh. phải kêu lên:
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng...
Đã thế lại còn
Bài thơ đan áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh. đăng lên báo
Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)? Bài thơ như T.T.Kh. đã nói rõ:
Chỉ có ba người (?) đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem...
Với mục đích gì “người yêu của T.T.Kh” lại đăng lên báo
Bài thơ đan áo để đến nỗi T.T.Kh. phải nặng lời:
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh...
Một người nghiêm túc như Thâm Tâm mà anh em văn nghệ thời trước từng quen biết, có thể có cử chỉ và lời thơ dễ dãi, vô ý thức như vậy không? Đó là sự đáng ngờ. Vì vậy, ngày Trần Huyền Trân còn chưa lâm bệnh nặng, tôi đã hai lần gặng hỏi anh về mối tình của Thâm Tâm và T.T.Kh. có thực có hay không? Và Trần Huyền Trân người bạn “nối khố” của Thâm Tâm, đã khẳng định là không từng nghe Thâm Tâm nói đến. Vậy người yêu đích thực của Thâm Tâm là ai? Có phải là T.T.Kh. như lâu nay nhiều người nghe nói? K... và T.T.Kh là một hay hai.
Có người nói: Vào thời thơ T.T.Kh. nổi lên như thế, có nhiều anh tự nhận là người yêu của họ, nên Thâm Tâm đã phải kêu cái tên Khánh lên rõ to, để mọi kẻ có ý đồ xấu phải im tiếng, và hiểu rằng “hoa kia đã có chúa xuân”.
Như vậy lại càng không đúng tư cách Thâm Tâm. Anh Vũ Cao là người cùng sống gần gũi nhất với Thâm Tâm khi làm báo
Vệ quốc quân (sau là
Quân đội Nhân dân) trong kháng chiến chống Pháp đã nói với tôi: “Thâm Tâm tính tình kín đáo, nghiêm túc đến nỗi chính vợ mình rất nể sợ. Phong cách làm việc của anh đúng mực đến nỗi anh em toà soạn phải noi gương “học tập Thâm Tâm”. Cho nên, một số bạn thơ văn, đích thực là bạn của Thâm Tâm thường nói: “Thâm Tâm qua đời lâu rồi, mà T.T.Kh. nếu còn sống cũng đã già lão quá rồi, nên để họ yên nghỉ với giá trị không thể chối cãi một thời của họ. Những danh nhân chết đi bao giờ chả để lại cho người sau vô số huyền thoại, cái đúng cái sai, cái “dởm”. Đó là vinh dự cho danh nhân, không phải vinh dự cho người muốn gắn tên tuổi mình vào hào quang của người đã khuất. Vũ Cao và Trần Cư, cùng làm báo quân đội với Thâm Tâm cho biết: ngay bài thơ
Tống biệt hành, anh em nhắc đến, Thâm Tâm rất cảm động, nhưng vốn là người khiêm tốn, anh không thích kể đi kể lại, coi đó là tuyệt đỉnh của mình. Tiếc rằng anh “đi” sớm quá, giữa lúc anh còn muốn có những bài thơ mới, khác với hơi thơ cũ.
... Ông Vũ Bằng (vào quãng cuối tuần báo
Tiểu thuyết thứ bảy) di cư vào Sài Gòn có dựng đứng câu chuyện “Quang Dũng là con trai cụ Tản Đà” và nói về T.T.Kh., họ Vũ cũng chép tên thi sĩ Leiba vào, làm mọi người chả hiểu ra sao. Nhưng ai đã từng làm báo với họ Vũ cũng đều thuộc “ngón” làm ăn này của Vũ. Leiba (tức Lê Văn Bái) có thời gian ngắn làm báo
Ích hữu (của Tân Dân) sau đó thi đỗ, làm ông phán toà sứ sơn Tây, rồi mất (1941). Leiba là lớp trước Thâm Tâm, không quen biết gì nhau. Đây chỉ là cách làm báo phao tin “giật gân” cho chạy báo.
Cũng cùng một loại phao tin “thất thiệt” đó tôi còn nghe một chuyến tức cười nữa là có người khẳng định người yêu của Thâm Tâm chính là cô em gái, cùng cha khác mẹ với nhà thơ Tế Hanh! Sự đồn đại chung quanh một tên tuổi đi vào lịch sử văn học, quả là phong phú.
Gần đây, trên một vài tờ báo ta đọc hằng ngày đều có những “thông tin” vô bằng cớ như trên. Những chuyện “nghe lỏm” rồi thêu dệt thêm tuỳ hứng. Như giai thoại về Nguyễn Tuân, về Vũ Trọng Phụng, về Quang Dũng, về Nguyễn Gia Trí, và Thanh Tịnh, v.v...
Buồn thay, lớp người 1930 - 1945 trong văn học, đã theo nhau “đi” gần hết. Còn sót lại có Lưu Trọng Lư, Bùi Hiển, Tô Hoài... “Nửa đêm chợt tỉnh”, anh Lư có còn nhớ nhiều không, với sức nhớ của người trên 70 rồi?
Viết đến đây, tôi muốn cung cấp để bạn đọc biết thêm ít chi tiết về T.T.Kh trước khi chấm dấu cuối cùng: Hồi 1937, tôi có nhận được một thư trả lời toà soạn
Tiểu thuyết thứ bảy... của T.T.Kh. Tôi nhớ đại ý, người làm thơ không muốn cho địa chỉ - để chúng tôi gửi báo biếu, với lý do cuộc đời của mình “chả ra sao”. Bức thư đó, cũng như thư của bạn đọc hàng ngày gửi đến báo, ai giữ làm gì? Hơn nữa, hồi đó tôi còn trẻ, nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “phụ nữ làm thơ”. Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành giá trị.
Còn chuyện nữa xin kể nốt:
Hồi làm báo
Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội, vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hoá, nên thời thường vẫn đi về, cũng như Nguyễn Tuân và Hồ Dzếnh có gia đình ở thị xã này.
Một hôm, tôi không có mặt ở nhà, thấy mẹ tôi bảo: “Có một người con gái đến chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa ti-gôn rồi cáo lui”. Từ đó, không lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái, nhưng thời gian này, báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh. rồi, vậy đó và người đã đọc truyện
Hoa ti-gôn của tôi, hay đã yêu thơ T.T.Kh. mà tìm đến?
“... Ở lại vườn Thanh có một mình...” Có thể người này vốn là dân thị xã này hay chăng? Sao tôi không biết, không từng gặp? Lại nữa, nếu như có thực tên người yêu của Thâm Tâm là... Khánh, Trần Thị Khánh! thì bài thơ
Các anh đã gọi toẹt ra rồi. Chỉ có tôi đến hôm nay là còn chưa rõ. Bạn đọc chú ý đến thơ T.T.Kh. và Thâm Tâm, người nào chả nói được, căn cứ theo lời kêu gọi trong thơ: “Khánh ơi!” còn hỏi gì anh?, Khánh ơi còn đợi gì anh?...” Chả là thầy bói cũng nói trúng tên: người ấy, T.T.Kh. (tức Khánh).
Năm tháng đã “cuốn theo chiều gió” bao chuyện vui buồn. Cái gì còn lại vẫn là tài năng, đức hạnh. Ngày nay còn có người nhắc đến T.T.Kh. là do sức sống của thơ. Có người thích thú tìm thấy 9 chữ thu trong hai bài thơ đầu (mùa thu tâm sự đầy khắc khoải). Có người điểm thấy ba chữ nghiêm trong thơ T.T.Kh. mà đoán rằng: nghiêm là tên chồng, hay là họ người luống tuổi của T.T.Kh? Lại có người nhấn mạnh mấy chữ, lúc thì tôi, lúc thì em trong thơ T.T.Kh. (vừa giận vừa thương của một tấm lòng tha thứ, khi thấy người yêu làm vỡ lở tình duyên cũ).
Riêng tôi, đọc lại thơ T.T.Kh. tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ bà này khác xa thơ của ba ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cùng thời. Thơ T.T.Kh. không có những chữ “Ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường... (Thâm Tâm); hay rau tần, ngõ trúc, tương tư, giang hồ, nhân thế, biển dâu, khóm trúc phong ba, hoạ đèn, giọt dòng, lưu biệt, thiên thu, tích liêu, v.v... (Trần Huyền Trân); hay vương tơ, Lão bộc, vật đổi sao rời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the v.v... (Nguyễn Bính). Thơ T.T.Kh. kể chuyện mình một cách giản dị, không sáo ngữ, lúc thì thanh minh “Ba năm ví biết anh còn nhớ, Em đã câm lời có nói đâu”, lúc lại trách người “mang cánh ti-gôn ấy, mà viết tình em được ích gì”, rồi lại tự than: “Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết, Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa...” Sực nhớ việc mình đi lấy chồng đã 3 năm, lại hối: “Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, Trời ơi người ấy có buồn không?”...
Thơ T.T.Kh. không cố tìm chữ lạ, không làm dáng, nên dễ đi vào lòng người, nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ. Luyến tiếc thời ngây thơ con gái, lắng tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng như bước chân người yêu trở lại, càng lo sợ. Tả cái giận, nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu mà mình không rứt được... thật chân thành.
Từ năm 1937 đến năm 1938, để lại ba bài thơ chuyên tả tâm sự mình mà người đọc không chán. Đó là đặc điểm của thơ T.T.Kh.
T.T.Kh. là ai?
Có lẽ ta cũng cần biết rõ đó là ai? Một người phụ nữ vào thời đó làm thơ, đã theo kịp trào lưu thơ mới, là điều đáng trọng. Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà - nếu bà còn, đã đáng bậc bà - không thể được bà sẵn lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên đi, đào sâu chôn chặt mối tình đau xót, bất hạnh nhất của mình (mà đã có những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt) hẳn không giống kẻ kém tài kém đức chỉ mong có nổi một bài thơ tình được đăng lên báo, vì danh hay vì lợi.
Với sự trân trọng một tài năng, một tâm hồn phụ nữ hiếm hoi trong quá khứ, chúng tôi viết bài này và đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất của bà, để chúng ta cùng thưởng thức.
Mùa thu 1990
Thanh Châu