Thơ » Trung Quốc » Bắc Tống, Liêu » Liễu Vĩnh
Đăng bởi hongha83 vào 20/10/2008 06:48
煮海之民何所營,
婦無蠶織夫無耕。
衣食之源太寥落,
牢盆煮就汝輪征。
年年春夏潮盈浦,
潮退刮泥成島嶼。
風乾日曝咸味加,
始灌潮波塯成滷。
滷濃堿淡未得閑,
採樵深入無窮山。
豹蹤虎跡不敢避,
朝陽山去夕陽還。
船載肩擎未遑歇,
投入巨灶炎炎熱。
晨燒暮爍堆積高,
才得波濤變成雪。
自從瀦滷至飛霜,
無非假貸充餱糧。
稱入官中得微直,
一緡往往十緡償。
周而復始無休息,
官租未了私租逼。
驅妻逐子課工程,
雖作人形俱菜色。
鬻海之民何苦門,
安得母富子不貧。
本朝一物不失所,
愿廣皇仁到海濱。
甲兵淨洗征輪輟,
君有餘財罷鹽鐵。
太平相業爾惟鹽,
化作夏商周時節。
Chử hải chi dân hà sở dinh,
Phụ vô tàm chức phu vô canh.
Y thực chi nguyên thái liêu lạc,
Lao bồn chử tựu nhữ luân chinh.
Niên niên xuân hạ triều doanh phố,
Triều thoái quát nê thành đảo tự.
Phong can nhật bộc hàm vị gia,
Thuỷ quán triều ba lựu thành lỗ.
Lỗ nùng kiềm đạm vị đắc nhàn,
Thái tiều thâm nhập vô cùng sơn.
Báo tung hổ tích bất cảm tỵ,
Triêu dương sơn khứ tịch dương hoàn.
Thuyền tải kiên kình vị hoàng yết,
Đầu nhập cự táo viêm viêm nhiệt.
Thần thiêu mộ thước đồi tích cao,
Tài đắc ba đào biến thành tuyết.
Tự tòng chư lỗ chí phi sương,
Vô phi giá thải sung hầu lương.
Xưng nhập quan trung đắc vi trực,
Nhất mân vãng vãng thập mân thường.
Chu nhi phục thuỷ vô hưu tức,
Quan tô vị liễu tư tô bức.
Khu thê trục tử khoá công trình,
Tuy tác nhân hình câu thái sắc.
Chúc hải chi dân hà khổ môn,
An đắc mẫu phú tử bất bần.
Bản triều nhất vật bất thất sở,
Nguyện quảng hoàng nhân đáo hải tân.
Giáp binh tịnh tẩy chinh luân chuyết,
Quân hữu dư tài bãi diêm thiết.
Thái bình tương nghiệp nhĩ duy diêm,
Hoá tác Hạ Thương Chu thời tiết.
Dân nấu biển làm gì?
Vợ không canh cửi chồng không ruộng cày
Nguồn cơm áo quá ư lận đận
Muối nấu ra ngươi đã mang đi nộp thuế
Hai mùa xuân hè triều dâng đầy bãi
Khi nước triều lui vét bùn cao như cồn
Gió thổi nắng phơi thêm vị mặn
Bấy giờ mới tưới nước biển vào để thấm ra nước mặn
Nước mặn nồng, muối nhạt vẫn chưa được việc gì
Còn phải vào núi sâu hái củi
Dẫu có vết hổ báo cũng không dám tránh
Sáng ngày ra đi chiều tối mới về
Thuyền chở vai vác chưa được nghỉ ngơi
Ném củi vào lò lửa hừng hực
Sáng đốt chiều đun đống muối chất cao
Bấy giờ sóng biển mới biến thành màu tuyết trắng
Từ lúc vũng nước đọng cho đến khi thành hạt muối
Chẳng qua là đi vay mới có bữa ăn
Được ít nào câm vào cửa quan
Một quan tiền thường là phải trả gấp mười
Đầu năm đến cuối năm vẫn không có lúc nào nghỉ
Thuế quan chưa xong lại đến thuế tư giục
Phải cho vợ con đi làm phu
Tuy là hình người nhưng mặt như tàu lá
Dân nấu biển khổ làm sao
Bao giờ cho được mẹ giàu con không nghèo
Muôn vật của bản triều có nơi có chốn
Mong sao ơn vua mở rộng đến miền biển
Rửa sạch khí giới bỏ thuế má
Vua có dư tiền bỏ hết thuế muối sắt
Làm tể tướng thời thái bình chỉ phải nêm canh
Trở thành tháng ngày của Hạ, Thương, Chu.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Dân nấu muối biển sống sao đây?
Vợ không canh cửi chồng không cày
Nguồn sống áo cơm thật buồn tẻ
Nấu xong thùng muối là thuế ngay
Hàng năm xuân hạ triều ngập bãi
Triều xuống gom bùn thành đông núi
Gió hong nắng dãi muối thêm nồng
Lọc qua nước triều thành đất muối
Đất nồng muối nhạt đã xong đâu
Kiếm củi xông vào tận núi sâu
Vết hổ dấu beo nào dám quản
Sáng sớm ra đi về đã chiều
Thuyền chở vai gánh bao mải miết
Quẳng cả vào lò cháy bằng hết
Suốt ngày nung nấu từng đống cao
Biến sóng biển xanh thành đụn tuyết
Từ vũng bùn đen đến trắng ngần
Đều là vay mượn lấy lương ăn
Cân nạp cho quan giá rẻ mạt
Một quan vay lãi hoá mười quan
Quanh đi quẩn lại không hề ngớt
Thuế quan chưa xong thuế tư bắt
Xua con đuổi vợ đi làm thuê
Tuy có hình người mặt xanh ngắt
Đời dân nấu muối, ôi cay chua
Ước gì mẹ giàu con cũng no
Ơn trên mọi vật yên nơi chốn
Bến biển xa này thấu đến cho
Gươm giáo rửa cất, thuế khoá bãi
Bỏ thuế muối sắt, của thừa thãi
Thái bình ông tướng giỏi điều canh
Hãy làm sống lại đời Tam đại.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 01/09/2018 15:47
Dân nấu biển làm gì để sống
Vợ không tằm chồng cũng không cày
Nguồn cơm áo quá là gay
Muối khi nấu được nộp ngay thuế đòi
Triều ngập bãi xuân rồi hạ tiếp
Khi triều lui bùn đắp thành cồn
Nắng phơi gió thổi mặn dồn
Tưới triều, nước mặn mới dần thấm ra
Nước mặn chát vẫn chưa thành muối
Vào rừng sâu hái củi nhọc nhằn
Dấu hùm vết báo chẳng sờn
Ra đi từ sáng hoàng hôn mới về
Bao vất vả chưa hề nghỉ sức
Ném vào lò lửa rực nước sôi
Sáng đun chiều nấu bao người
Để từ sóng biển nên ngôi tuyết trời
Từ vũng nước mặn mòi đọng ứ
Chẳng qua vay mới có bữa ăn
Cửa quan chút ít vào cân
Một quan vay trả mười quan lãi lờ
Quanh năm vẫn không giờ ngơi nghỉ
Thuế công còn đã nghĩ thuế tư
Thúc vợ con phải đi phu
Mặt xanh tàu lá chẳng ra hồn người
Dân nấu biển cuộc đời cực khổ
Sao để cho mẹ có con no
Triều đình sắp đặt nhỏ to
Ơn vua thấm tận tới bờ biển xa
Gươm giáo rửa ngừng thu thuế mới
Vua dư tiền sắt muối bỏ luôn
Thái Bình tể tướng muối nêm
Hoá đời Tam Đại để xem thái bình