Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Lữ Huy Nguyên
Đăng bởi tôn tiền tử vào 02/03/2024 10:41
I
Mấy đêm rồi tối ngủ ở Đồng Đăng
Thị trấn miền rừng địa đầu biên giới.
Trập trùng núi, hồn tôi như ngọn suối
Miên man trôi trong thăm thẳm của rừng.
Chiếc võng tôi nằm buộc sóng mấy hàng thông
Dãy phố cổ nhấp nhô màu ngói ống
Bức thành đá chạy dài như chân móng
Bốn nghìn năm bền vững một âu vàng,
Gió vô hồi, lịch sử giở từng trang
Hồn tôi dạo dọc dài trong phố tối
Vó ngựa Tống, Thanh... bao lần gẫy gối
Nấc trong đêm, Nguyên sứ khóc thân già
Bóng loè gươm sắt, lòng thêm đắng
Tiếng rộn trống đồng, tóc đốm hoa
Đất nước này, quân giặc xéo qua
Dấu thất trận nghìn đời khôn rửa
Lũ lượt Thoát Hoan chết chìm trong lịch sử
Mộng Nam chinh vĩnh viễn cuốn xa rồi
Muốn gọi thầm, yêu quá, Đồng Đăng ơi!
Tôi thấy gì trong giấc ngủ của tôi?
Bóng xà cạp kéo lê, đế giày vẹt gót
Tiếng thác loạn những mộng tàn xâm lược
Thời gian trôi như nước xối trên ngàn
Lịch sử biến thiên qua nhiều triều đại
Cơn xoáy lốc ập đầu biên ải
Trống Tràng Thành, trăng mấy thuở lung lay
Khói Cam Toàn mờ mịt thức mây
Dẫu ngựa đá, vó câu còn lấm bụi
Nàng Tô Thị cũng bao lần xuống núi
Bồng con thơ, ngọn giáo sắc cầm tay
Sức mạnh Việt Nam dồn lại một hôm nay
Tên đồng Cổ Loa nghìn đời chuốt sáng
Vỗ thân cọc, sóng sông Đằng dào dạt
Đá Mã Yên, giáo mác vẫn khua rền
Mặt trống Đông Sơn tưng bừng vỗ nhịp
Nhạc võ Quang Trung rền rung Tam Điệp
Muốn gọi thầm, yêu quá, Việt Nam ơi!
Tôi thức cùng Đồng Đăng của tôi
Nghe bốn phía thời gian trở dạ
Bông Lau, Lũng Phầy, Đông Khê, Bản Rã...
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Cao Bắc Lạng, những ngày năm ấy
Bác trèo non, gậy trúc cầm tay:
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy
Bác dặn đấy: Trận này phải thắng!
Đồng Đăng ơi, lời Bác mãi còn đây.
II
Tôi đứng giữa bốn bề gió núi
Hàng sa-mu tư lự bên đèn
Chim khắc khoải rừng xa gọi bạn
Đêm biên phòng giấc ngủ không yên
Con sông rừng đổ dốc bờ quen
Trong thinh lặng chùa xa mõ giục
Cây ngô đồng rễ ngang rễ dọc
Ngựa đâu về gõ móng ngoài hiên
Những ngôi nhà cửa mở qua đêm
Ánh đèn phẫn đưa tiễn người lưu lạc
Tiếng còi tàu phút này nghe cũng khác
Nó rỉ rền như tiếng nấc xót xa
Mấy người Hoa lặng lẽ xuống sân ga
Họ từ miền xa... qua đây... rồi đi mãi
Tiếng xe trâu lăn trên đường bải hoải
Những mặt người sầm tối buồn đau
Đi về đâu, nào họ biết về đâu
Câu hỏi lớn xoáy chìm trong tâm tưởng
Đi về đâu? Cuộc đời như mất hướng
Tổ quốc bên kia thành sự dối lừa
Bóng tối nhập nhoà vai áo...
Tôi đứng giữa Đồng Đăng thị trấn miền rừng
Thức với bà con một vùng xóm núi
Chằm bặp xiết tay những người ở lại
Đêm nay ra chật mặt đường
Tổ quốc này họ mãi yêu thương
Chân bám chặt trên nền đường nhựa bóng
Lòng sống dậy những ngày sôi động
Đêm băng hào đánh Mĩ những năm qua
Bao gia đình chồng vợ phải chia xa
Hồn Tô Thị chẳng bao giờ hoá đá...
Ngọn gió sớm thổi mát lòng phố xá
Ánh nắng lên, sương núi vỡ ngang chừng
Dưới mặt trời, sừng sững một Đồng Đăng
Anh công an vũ trang đứng bên tôi, bỗng nói
Hơi thở nhẹ lẫn vào trong gió núi
Đôi mắt anh sáng như mắt cửa rừng:
“Cột đồng trụ Mã Viện nào cắm xuống
Cũng ngụp chìm trong sóng Bạch Đằng Giang”
Mấy đêm rồi, tội thức với Đồng Đăng.