Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Hoàng Cầm » Bên kia sông Đuống (1983) » Bên kia sông Đuống
Em ơi! Buồn làm chiMột tiếng kêu tự đáy lòng dễ thường chỉ gặp ở trong thơ tình, mà là thơ tình thứ thiệt, thơ tình chân chất của người trong cuộc, chứ không phải thứ thơ tình mượn danh tình yêu để rao giảng việc khác. Có sự vào bài ngọt lịm như thế, sự vào bài giúp cho cả bài sẽ “đầu đi đuôi lọt” như vậy là nhờ ngay từ đầu tác giả chắc không nghĩ mình làm thơ để ban phát một điều gì, thậm chí phục vụ một mục đích gì. Ông viết như một sự giải toả nỗi lòng đang dào dạt những nhớ thương, buồn đau khôn xiết. Có thể rồi dần dà ông sẽ nghĩ tới những điều ấy, nghĩ tới bạn đọc, nhưng đó chắc chắn là chuyện đến sau, còn vào phút ấy, ông phải viết ra ngay những lời như đã ngấp nghé nơi cổ họng, như một tiếng kêu, một tiếng thét bật ra từ sâu thẳm trái tim - thế thôi. Tôi nghĩ, nếu sau này nhà thơ có kể lại rằng ông đã viết những lời này như sự mách bảo của một thế lực siêu nhân thì thế lực bí mật đó chẳng có gì khác hơn là những cảm xúc, những ý tưởng đã nung nấu đến thành ra máu thịt ở trong ông tự những bao giờ khiến cho chính ông cũng không ngờ tới. Sự thể này trên đời vẫn có lúc xẩy ra, mà nhà thơ của chúng ta không phải là trường hợp hy hữu. Nhất thiết không có gì thần bí theo nghĩa duy tâm ở đây, mà chỉ có bản chất của công việc sáng tạo nghệ thuật, cái công việc “cướp quyền Tạo Hoá” rắc đậu thành binh, dám cả gan tạo dựng cả trời đất và hồn người trên trang giấy thì vốn tự thân đã là như vậy. Phải thấu hiểu đến tận cùng cái phút giây “thơ về giáng bút” như chữ dùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương khi bàn tay của người viết tựa như miệng của cô đồng - nếu như có những cô đồng đích thực - chỉ biết chạy theo những “mệnh lệnh” bí ẩn từ đâu đó trong cõi vô minh mà ở đây ta có thể hiểu là tiếng nói sâu thẳm của những cảm xúc, những nghiền ngẫm suy tư đã tích tụ từ lâu lắm trong bộ nhớ của con người, lâu và chín đến nỗi ta không còn nhớ đến nó nữa, đến nỗi khi nó vang lên bên tai thì ta cứ nghĩ là nó vọng về từ vô thức! Phải, có hiểu như vậy thì ngõ hầu ta mới không hoang mang khi đứng trước một câu thơ như ta vừa nói tới ở trên:
Anh đưa em về sông Đuống
Sông Đuống trôi điCó lẽ từ thuở bài thơ được phổ biến đến nay, câu thơ này luôn luôn và mãi mãi là một câu đố trong lòng công chúng yêu thơ. Tôi biết, có vị giáo sư đáng kính đã từng đạp xe dọc sông Đuống hàng chục, hàng chục cây số để tìm lời giải đáp cho câu hỏi ấy. Nghe đâu như ông đã tìm ra, nhưng là để giải đáp cho ông thôi, còn những người khác, họ có chấp nhận hay không thì chưa chắc. Thực ra, tất cả chỉ ở hai chữ “nghiêng nghiêng” kỳ quái! Giá như nó chỉ khiến ta thấy nó cầu kỳ, thậm chí kỳ cục thì chẳng có gì mà nói, người ta hoàn toàn có thể viết những chữ kỳ cục hơn thế nhiều, nhưng hoặc chỉ để mua cười cho thiên hạ, hoặc sẽ chẳng ma nào để ý tới, điều phiền toái ở đây là dòng thơ kỳ lạ này lại ngay lập tức bám riết lấy hồn ta, trí ta, nó lay động, nó gợi mở, nó khiến ta cứ phải hình dung, phải tưởng tượng... thế nghĩa là nó có cái lý bên trong nào đó, có cái tình u ẩn nào đó - và với một câu thơ có sức ám ảnh dai dẳng đến như thế, thì ta chỉ biết nói là nó HAY, quá hay, vậy thôi, hay đến nỗi nếu được bầu một câu thơ hay nhất trong nền thơ kháng chiến, tôi xin được bỏ phiếu cho câu này. Bỏ phiếu, không do dự, nhưng cũng không... giải thích! Là vì thú thực, tôi cũng như mọi người, đã hơn một lần cố công giải thích cho cái hay của câu thơ, nhưng riêng tôi tự thấy nên từ bỏ ý định vô vọng này đi, bởi đơn giản càng mổ xẻ, phân tích càng thấy bất lực, thậm chí còn phơi hết sự dung tục của mình ra. Xin cứ để yên cho câu thơ được nằm mờ ảo trong vòng hào quang của Thần Thánh, mà với Thánh Thần thì “kính nhi viễn chi” xem ra vẫn là thái độ khôn ngoan hơn cả.
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ.
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợnCòn đây là cái cách mượn cảnh trời tả hồn người tinh vi và kinh điển:
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Có con cò trắng bay vùn vụtCó vẻ như ta đang nghe Nguyễn Du với “chim hôm thoi thót về rừng” báo hiệu một tai hoạ sắp ập xuống với nàng Kiều. Và đến câu thơ sau đây thì không có gì khác hơn là tài dùng chữ siêu việt:
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yênHai chữ “thấp thoáng” đã nâng vị thế con người lên một tầm nhìn rất cao và đầy nhân bản. Xin kể một câu chuyện nhỏ: Có một lần, sau một cuộc đọc thơ ở Thư viện Hà Nội, mấy anh em làm thơ của nhiều thế hệ quây quần trò chuyện, nhà thơ Phùng Quán, ý muốn thử tài các động nghiệp theo cách của ông, liền làm một cuộc trắc nghiệm bằng cách đề nghị mỗi nhà thơ đọc một câu thơ của mình mà có thể gói trọn thần thái của cả đời người ấy trong đó (xin tiết lộ là đã có không ít nhà thơ rất lúng túng khi phải tham gia cuộc trắc nghiệm này). Đến lượt nhà thơ Hoàng Cầm thì chính Phùng Quán xin được nói hộ “ông anh tôi đây”, và Phùng Quán đã chọn câu thơ trên một cách thích thú và tâm đắc. May mắn được có mặt ở đấy, người viết bài này cũng phải công nhận cái sự chọn của ông thi sĩ họ Phùng là rất chính xác. Kể câu chuyện này ở đây là để thay cho một lời bình luận, vì nó đã nói lên rất nhiều.
Quê hương ta từ ngày khủng khiếpVà cứ thế cho đến những câu thơ kết đẹp như một dòng âm thanh lanh lảnh vút lên giữa trời xanh:
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu...
Bao giờ về bên kia sông ĐuốngThiết nghĩ, cùng với giá trị của những từ ngữ, hình ảnh xuất thần, về mặt nhạc tính, Bên kia sông Đuống đã là cả một dàn giao hưởng của rất nhiều giai điệu, tiết tấu làm say đắm hồn người và đủ để biểu dương vẻ đẹp không gì sánh nổi của tiếng Việt khi trở thành vũ khí lợi hại của thơ ca.
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.