Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Ngô Cát » Đại Nam quốc sử diễn ca
Đăng bởi Vanachi vào 16/03/2007 15:55
1. Triệu Vũ Vương thần phục nhà Hán
Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên ngu.
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm dương,
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù.
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thuỳ gìn giữ cơ đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng Sa
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lần.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục Giả cựu thần lại sang.
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thuỷ chung.
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mươi.
2. Triệu Văn Vương và Triệu Minh Vương
Văn Vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên cương.
Phong thư tâu với Hán hoàng,
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quân.
Vương Khôi vâng lịnh tướng thần,
Ải lang quét sạch bui trần một phương.
Hán đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống nghi.
Xe rổng phút bỗng mây che,
Minh vương ở Hán lại về nối ngôi.
Bợm già bỗng rấm hoạ thai,
Vợ là Cù thị vốn người Hàm đan
Khuynh thành quen thói hồng nhan,
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hành.
Dâng thư xin với Hán đình,
Lập con thế tử, phong mình cung phi.
3. Cù Thị xin nhập Hán
Ai Vương thơ ấu nối vì,
Mẹ là cù hậu, nhiều bề riêng tây.
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc sứ trong gầy lệ giai.
Khéo đâu dắt díu lạ đời,
Sứ là Thiếu Quý vẫn người tình nhân.
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hoà thân một lòng.
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới già.
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu.
4. Lữ Gia phá mưu Cù Thị
Lữ Gia là tướng ở đầu.
Đem lời can gián bây mưu xa gần.
Một hai ngăn đón hành trần:
“Để cho Triệu bích về Tần sao nên.”
Nàng Cù đã quyết một bên.
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tay.
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng dằng.
Đang khi hoan yến nửa chừng,
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra.
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần.
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ thần non gan.
5. Hán đánh Nam Việt
Vũ thư đạt đến Nam Quan,
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.
Rắp toan bán nước làm công.
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sau.
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đào.
Quan binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoa.
6. Nhà Triệu mất
Vệ Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch nhân.
Hai nghìn giết sạch Hán quân,
Đem cờ sứ tiết để gần ải quan.
Tạ từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp công.
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu hàng ngoài mạc, hội đồng các dinh.
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ vương, Lữ tướng buộc mình cửa hiên.
Kể từ Triệu lịch kỷ niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vua.
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trời.