Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh » Truyện thơ » Thiên Nam ngữ lục
Đăng bởi tôn tiền tử vào 20/03/2025 23:29
I
1. Bắc biên ngoài cõi Chu Diên,
Võ Giàng huyện ấy sinh nên một người,
Tên là Thi Sách có tài,
Dòng dõi đời nhà con cháu Hùng Vương,
Trọn thời lễ nghĩa cương thường,
Chẳng muốn suy phục mở mang nghề nhà.
Còn lo Tô Định gian tà,
Đãi cơ chưa dám hở ra sự tình.
II
Đồn rằng trên quận Mê Linh,
10. Họ Trưng dòng dõi trổ sinh đôi nàng.
Phong tư khác thói tầm thường,
Tóc mây lưng tuyết hơi hương da ngà.
Bướm ong chưa dám gần hoa,
Trắc là chị cả, Nhị là em hai.
Gồm no văn vũ mọi tài,
Bề trong thao lược, bề ngoài cung tên,
Một trăm sắm sửa trọn nghìn,
Mười tám dòng truyền võ nghệ lầu thông.
Trọn bề nhan sắc má hồng,
20. Mỹ miều đã lọt trăm vòng Hằng Nga.
Dòng nhà Lạc tướng sinh ra,
Tuổi vừa đôi tám còn hoà thiếu đối.
Muốn vàn điệp sứ ong môi,
Chọn chẳng được người kế tuyệt phù nguy.
Tơ hồng còn lẻ chưa xe,
Còn giăng gác núi, còn hoa bén cành,
Giận thằng Tô Định gian manh!
Khỏi rừng hùm dẫu cậy mình mạnh chi!
Ngậm hèn phải phận nữ nhi,
30. Lu lê ai kẻ khẳng vì nghe theo?
Vật gì giống bọ đầu trâu,
Vẫy tai một phút lầu lầu quét thanh!
III
Sách cho môi ước đến trình,
Dẫn dòng Lạc tướng bày tình ông cha.
Rắp mong gây dựng nghiệp nhà,
Hiềm trong chủ quỹ chưa hoà có ai.
Tình cờ trong có một người,
Phúc đội ơn giời sức mới được dân.
Kẻo còn khúm núm khuất nhân,
40. Hùm thiêng lần lữa ẩn thân non tàng.
IV
Trắc nương nghe biết than rằng:
“Nước Nam ngỡ những ở sòng như ta!
Chẳng ngờ có kẻ lo xa,
Trong cơ hội ấy có ta càng màu.
Vốn ta ý rắp đã lâu,
Được người hào kiệt cùng nhau vẫy vùng.
Ra đời nên kẻ anh hùng,
Xá sao học thói vợ chồng kẻ quê.
Lấy nhau ăn ở lờ cờ,
50. Lẩn thẩn đi về ngõ xã làng dân.
Lấy làm đắc thú an dân,
Hôm sớm lo vần buôn bán ngược xuôi.
Định kỳ chọn sự lan giai,
Giá thú luận tài, Di địch thói quen.
Ta cùng Thi Sách kết duyên,
Trọn sự người hiền ăn ở cùng nhau.
Miễn là trọn vẹn gót đầu,
Chớ trì sự ấy cho mau việc làm.”
V
Từ thông hoà hảo bắc nam,
60. Một nhà phu phụ nghìn năm kết nguyền.
Vợ chồng mừng thắm nhân duyên,
Toan đương mở nước dựng nên nghiệp nhà.
Phiên hầu lần lữa để qua,
Tô Định lòng ngờ Thi Sách phản mưu.
Người ta nói khéo bảo nhau,
Rằng người Sách lấy hai hầu họ Trưng.
Nữ tài có sắc khác hằng,
Của nên vô giá xem bằng thần tiên.
VI
Từ ấy Tô Định nghe tin,
70. Biết rằng còn gái thuyền quyên tốt vời,
Thi Sách nên đứa dễ ngươi,
Chẳng lòng cung kính kết đôi vợ chồng.
Nó toan làm sự gian vòng,
Trước liệu ra lòng, phương trấn truyền binh.
Toan lo làm sự chẳng lành,
Nín hơi chẳng thấy đem mình đến đây.
Lâu ngày cỏ mọc cánh bay,
Rẽ dầu khôn thấu, gốc lay khôn rời.
VII
Binh quý thần tốc chớ sai,
80. Ra khi bất ý, vào nơi vô tình.
Định binh đến Chu Diên thành,
Nghìn vàng sao chuộc lấy mình họ Thi.
Tìm lấy Trắc nương đem về,
Nghìn vàng kiến tại phân chia trong ngoài.
Tô Định trong có một người,
Biết tin bảo Sách mọi nhời vân vân.
Hay tình Sách mới ra quân,
Lối đường gìn giữ nẻo ngăn đi về.
Tô binh sắm sửa kíp đi,
90. Vũ Ninh chốn ấy bốn bề bọc tươi.
VIII
Sách rằng: “Chẳng có mỗ nhời,
Những sự nghe người, bắt bọ bỏ tai.
Tướng quân nhân nghĩa khắp đời,
Di thần sao dám chống người nhà vua?”
Định rằng: “Người chớ hèn lo,
Có mặt bướng phè, vắng mặt hung hăng!
Ấy người làm sự bất bằng,
Đâu mà chẳng biết, lọ rằng mới hay.”
Sách rằng: “Nhời ấy oan thay!
100. Việc nhà phương trở, nên rày chửa ra.”
Định rằng: “Ngươi, đứa gian tà,
Nghe chước đàn bà làm sự bất trung!
Tôi, ngươi ở chẳng hết lòng,
Hai gái má hồng dùng lấy kết duyên!
Toan nhau làm sự nghịch thiên,
Biết tin tao đến Chu Diên thăm tình.”
Sách rằng: “Tao ngỡ hiền lành,
Lấy ân vỗ chúng để danh đãi hiền.
Chẳng ngờ ra dạ muông chim,
110. Phen này lỗ lược tìm đi hai kiều.
Đôi Trưng tao vốn của yêu,
Đầu mày muốn đổi, tao liền bớt cho!”
Định rằng: “Thằng rợ Giao Châu,
Nói nhời hiểm độc, ruột đau như dần!”
IX
Đem lòng hờn giận thấm ngầm,
Mình lên cật ngựa hăm hăm xông vào.
Thi Sách lòng cực xiết bao!
Tay cầm bảo kích giáp nhau chém hoài.
Được thua ai có nhường ai,
120. Kể trăm vào thốc, động ngoài bốn phương.
Sách binh thế nhạt khôn đương,
Giời nhường chưa giúp, thần nhường chưa vâng.
Sách quân sợ dạ bập bầng,
Đảo qua ai nấy tìm đường về dinh.
X
Kêu nhau gìn giữ tử thành,
Bảo nàng Trắc Nhị mọi tình cho hay.
“Binh Tô thế nó mạnh thay!
Nàng ra đường tắt về rày Hát Môn.
Mai anh ra trận một cơn,
130. Thế được thì đón, thế thua thi lùi.”
Nàng rằng: “Rắp chí phù đời,
Chưa chi đã rời dinh luỹ làm sao?
Thiếp xin cùng chàng giúp nhau,
Mười cáo dễ hầu thua một hùm ru?”
Chàng rằng: “Trong việc binh cơ,
Chốn này bình địa giữ chưa được lành.
Hát Môn có thế dụng binh,
Sông sâu làm cứ, rừng xanh làm nhà.
Để anh đầu nhỡ thế sa,
140. Ta về cứ đấy để mà giữ coi.”
XI
Canh hai vừa thuở vắng người,
Chị em Trưng Trắc kín hơi ra về.
Ngựa đừng tra nhạc nó nghe,
Qua ngàn đồi mớ, tìm về Hát Môn.
Canh dài lặn lội nước non,
Quan sơn nghìn dặm, hương thôn về nhà.
Khiến người tử đệ binh gia,
Lập làm thành luỹ, phòng hoà nọ kia.
XII
Ai ngờ giời rứt họ Thi?
160. Vận chưa đạt thì, công nghiệp chưa nên.
Quan phòng sơ xuất giữ gìn,
Binh thằng Tô Định nửa đêm đến gần.
Thi Sách chửa kịp ra quân,
Nó bọc ba lần, ngựa ruổi đến nơi.
Vội vàng mặt chửa kịp coi,
Đốt dinh cháy hết, giết người tan manh.
Ngỡ còn Trắc Nhị trong dinh,
Rao quân tìm hết rẻo quanh trong ngoài.
Có người nhủ bảo khúc nhôi,
160. Nàng đà trốn khỏi xa xôi khôn tìm.
Lại về bởi mới nửa đêm,
Tô binh giở lại đến miền cựu dinh.
Quét thanh một huyện Vũ Ninh,
Lạng Giang trường độ đều kinh rền rền.
XIII
Báo tin về đến Hát Môn,
Thương chồng, nàng Trắc buồn muôn chẳng nằm.
Đôi hàng châu lệ đằm đằm,
Đã thương thời tiếc, lại căm mà hờn.
Thù này chất vững núi non,
170. Vàng phai chẳng bỏ, đá mòn chẳng quên.
Thương vì duyên chửa phỉ duyên,
Anh hùng trắc trở, thuyền quyên nhỡ nhàng.
Vợ chồng là nghĩa tao khang,
Tóc tơ chưa chút, thịt xương đã nguyền.
Nhẫn dầu muôn kiếp dám quên,
Sống làm tiết nghĩa, chết nên phúc thần.
Chị em truyền hịch xa gần,
Làm giai ai chí vì dân giúp đời.
Nước ta há thiếu nhân tài,
180. Cho thằng Tô Định ở ngôi tơ hồng.
Cho nó lấn lướt bách tòng,
Rễ bàng rễ bấm, chưa hòng ăn ai.
Ứng truyền thiên hạ con giai,
Một tuần binh kể dư ngoài mười muôn.
Cùng nhau họp cửa Hát Môn,
Cắt tay lấy máu lên đàn thề nhau.
XIV
Thời này lại đợi thời nào?
Hùm già cõi núi khôn vào rừng xanh.
Tôn nàng Trưng giữ chủ minh,
190. Tuy thân là gái vả danh cháu thần.
Còn nhiều cố chủ cựu thần,
Kẻ ơn áo gối, người ăn cơm thừa.
Cùng nhau đem lại nghiệp xưa,
Việc tuy có mở rắp đà sẵn khuôn.
Nàng bèn bước thẳng lên đàn,
Vái chưng thiên địa, giang sơn, quỷ thần:
“Tôi là một đứa phụ nhân,
Thời loạn ân chúng lập thân giúp đời.
Dầu thằng Tô Định dễ ngươi,
200. Trước khoe cá vạc, sau trôi lửa lò.
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kêu oan ức lòng chồng,
Bốn xin vèn vẹn sở công lịnh này.”
Lui cầm hoàng việt cồng tay,
Đứng hoà uý lạo khắp hoà dưới trên.
Ai ai dám khác lời nguyền?
Xuân vân nồi trận, thu liên cắm cờ,
Ào ào uy gió thổi đưa,
210. Phong thỉ tràng xà, ai thấy chẳng kinh?
XV
Định từ nghe biết phong thanh:
“Nực cười con trẻ buộc quanh tổ hùm.
Chồng nó xưa đã mưu làm,
Lênh chênh cho phải nhơ gươm tao rày.
Còn nó sống sót vê tây,
Ngỡ biết từ rày giở lại làm tôi,
Thời tao dung thứ dưỡng nuôi,
Chấp chi gái hoá mà hoài gươm thiêng!
Hàng đồng ra dạ cồng chiêng,
220. Kềnh kềnh nghe gióng toan riêng lấy phần.
Nếu mà chẳng chấp phụ nhân,
Để lâu sàm sỡ quen thân lăng loàn.
Mầm nhự để nó nhớn lên,
Thời cành liền héo, ta toan cho vùi.
Mạnh bạo nó là mấy mươi?
Mây nổi giữa giời, trận gió thổi bay!
Rao quân cả bấy củng hay,
Sắm sanh lương thực sáng ngày kịp đi.”
XVI
Định bước lên ngựa một khi,
230. Giữa đường sẩy thấy tiều nhi ca nhời:
“Cả mưa nước trẩy sông Đoài,
Cỏ lên đè lúa, cả rày lênh đênh.”
Định rằng “Điềm ấy tốt lành”,
Nam binh như gió, nữ binh như bèo,
Hát giang buộc hết đem treo,
Trống giong bảy chập, chiêng reo ba hồi.
Chị em Trưng Trắc nghe hơi,
Bèn lên cật ngựa, tới nơi địch cùng.
Định bèn ra đứng quân trung,
240. Thấy hai tưởng gái đã xông đến gần.
Dung nhan diện mạo phương phi,
Tốt vời Lãng Uyển, khác gì Hằng Nga.
Miệng cười hơn hớn nở hoa,
Da tựa trứng gà, má tựa phấn Yên,
Chiến bào thực cẩm vẻ in,
Lưng đeo đai ngọc, chân xuyên hoa hài.
Trên đầu búi tóc viền mai,
Hoa cài tả hữu, trâm cài trước sau.
Coi nhường nguyệt dậy đông lâu,
250. Động lòng Vương Xán thấy âu khôn cầm.
Định xem thấy mặt ước thầm,
Rắp toan bắt sống sinh cầm về dinh.
XVII
Nàng mắng Tô Định tung hoành:
“Hiếp dân lấy của, đem binh hại người.
Chồng tớ quan hệ chi ngươi?
Vô cớ nỡ hoài phụ đạo quan lang.
Tớ còn tiếc nghĩa tao khang,
Vậy mà tớ phải kiếm phương báo thù.
Mày dầu muốn vẹn toàn xu,
260. Đem đường về cứ nước Ngô nhà mày!
Nhược còn hãn ngự ở đây,
Chẳng đầy bụng cá, thì say dạ diều!
Quen thân tính khí tự kiêu,
Nước nào thất nghiệp, làm xiêu chủ nhà!”
XVIII
Định giận giục ngựa xông ra,
Nàng đem hoàng việt binh hoà chia đôi.
Một mình Tô Định chịu hai,
Xung nam đột bắc, thế coi anh hùng.
Hăm hăm tả đột hữu xung,
270. Chém Tô giữa trận như rồng cuốn mây.
Quân Ngô mất vía chạy ngay,
Định bèn táng đảm, mình rày tháo ra.
Đem binh về giữ dinh nhà,
Chị em Trưng Trắc bấy giờ đuổi theo.
Nàng gan đương trận cố liều,
Khua thằng Tô Định như bèo gió đưa.
Đốt tan luỹ ải doanh cơ,
Ngô binh thế túng như cờ mất xe.
Bèn cùng nàng, giáp can qua,
280. Nàng giơ hoàng việt, chém pha một hồi.
Thế bằng hùm đói tranh mồi,
Chưa ăn đã hết, nào ai lập nhìn?
Cầm đầu Tô Định giơ lên,
Ngô binh nhìn thấy bỗng liền đảo qua.
Nhường hươu mở lưới chạy pha,
Mình còn ở Việt, hồn đà về Ngô.
Ngẫm nhời đàn trẻ ca xưa:
“Giời mưa nước chảy”, đoài là phương tây.
Thượng lưu được thế chảy ngay,
290. “Cỏ lên đè lúa cá rày” thác hư.
Chữ “Tô” “thảo” đầu, “hoà”, “ngư”,
Ứng điềm Định thác bấy giờ lênh đênh.
XIX
Trưng binh vào đến Tô dinh,
Chiêu an sĩ tốt, dỗ dành quan quân.
Ai đâu ở đấy yên thân,
Đợi chờ xá sĩ, dời chân về nhà.
Ta thời ở giữ nước ta,
Người Ngô cho nó về nhà nước Ngô.
Bao nhiêu sĩ tốt ngày xưa,
300. Phải Tô Định hiếp, bây giờ được yên.
Truyền ra đứng cửa hiên môn,
Ai nguyền phu phụ, ai nguyền lại quê.
Dầu ai hết sức trợ thì,
Tòng quân ra chí nam nhi mặc mình.
Của Tô Định tích để dành,
Phân chia thảy thảy, một manh chẳng hề.
Ơn đều trên dưới thoả thuê,
Nàng bèn xa giá giở về Hát Môn.
XX
Muôn dân từ đấy khỏi hèn,
310. Nẻo sông khỏi lội, đường non khỏi trèo.
Quan quân cả bấy cùng đều,
Tôn nàng làm chủ, xem triều Việt bang,
Tôn hiệu xưng là Trưng Vương,
Thiết quan phân chức, sửa sang việc làm.
Tang chồng bèn mới tế đem,
Hoặc nhân có kẻ hỏi nàng rằng “bi”.
“Lý thời thương tiếc những bài,
Sự phiền Thái Tổ vị nhời Hoài Vương.
Chưa chi đã vội đao thương,
320. Di Tề hổ mặt, Vũ Vương thẹn lòng.”
Vua rằng: “Chư tướng chẳng thông,
Nếu binh quải hiếu thì lòng chẳng vui.
Tự nhiên khí nhuệ nên đồi,
Sầu mà đã dậy, nó coi ra gì?
Vậy bèn trang điểm phương phi,
Nó quen lòng dục, nó thì nể nang.
Cho nên binh nó trễ tràng,
Thừa cơ ta mới phô phang anh hùng.”
Chư tướng ai nấy phục tòng,
330. Khen vua liệu địch Tô công phen tầy.
Nữ ngưu nên đứng cao tay,
Gái danh hào kiệt, hoạ rày có hai.
Sức ra vực nước giúp đời,
Nghĩa chồng chưa vẹn, dân giời được ơn.
Quét thanh bụi bụi gio tàn,
Thu về thảy thảy giang sơn bản đồ.
Dạy từ Canh Tý làm vua,
Đến Nhâm Dần kể thì vừa ba năm.
Thành ngoài dư sáu mươi nhăm,
340. Thu về một mối tay cầm lâng lâng.
Mở thông nẻo bể đường rừng,
Trong không hươu đỗ, ngoài không cáo thành.
XXI
Nói việc Tô Định bại binh,
Giở về sau trước bày tình Hán Quang.
Rằng: “Quan thứ sử Nam bang,
Là người Tô Định phải thương bỏ mình,
Có hai con gái dậy binh,
Giết quan, xưng hiệu, đặt mình làm vương.”
Quang Vũ tức giận nhiều nhường,
350. Vật chi Giao Chỉ chút phương nốt ruồi.
Mà lại chẳng phải con giai,
Vả danh con gái xứng tài trượng phu.
Bèn sai Mã Viện bấy giờ,
Dư mười muôn lẻ binh hoà kịp sang.
XXII
Nàng nghe Đông Hán vua Quang,
Tin gièm lòng chẳng chút thương chư hầu.
Nhật trình quân cả kéo vào,
Được thua một trận thế nào sẽ hay.
Lên yên hoàng việt cầm tay,
360. Ba quân ủng ủng hẹn ngày tiến binh.
Giáp nhau ở cõi Man thành,
Phong vân nổi trận, lôi đình ra oai.
Ngất giời rợp bóng tinh kỳ,
Can qua lộn lạo thành trì chiến phong.
Nữ nam ra sức anh hùng,
Bằng hùm tranh thịt, bằng rồng tranh châu.
Trưng Vương khôn khéo quá ư,
Khiến người bèn gượng cắm cờ cửa dinh.
“Thỉnh hàng” hai chữ rành rành,
370. Mã Viện xem thấy lui binh ra ngoài.
XXIII
Trưng Vương khiến sứ đến nơi:
“Tướng quân có nhớ chữ Hoài Hầu chăng?”
Mã Viện bèn mói bảo rằng:
“Nhân sao mày cố hung hăng tranh cường?”
Sứ rằng: “Binh có phép thường,
Xem khi động tĩnh mới nhường sức nhau.
Vậy bèn khiến tôi sang hầu,
Bắc nam bờ cõi ai đâu đấy làm.
Định kỳ cống thuế cứ năm,
380. Xưng thần triều cống, vào làm tôi Ngô.”
Viện bèn cắt cõi chia cho,
Man thành lập luỹ, đấy là Tư Minh.
Đồng trụ cắm ở Man thành,
Hán, Trung hai nước dẫn binh cùng về.
XXIV
Ai ngờ tạo hoá đến kỳ?
Tiên hồn lại nhớ tiên vì thiên gia.
Chị em nhuốm bệnh yên hà,
Nửa đêm bỏ đất, lối ra lên giời.
Trong ngoài tướng tá ngùi ngùi,
390. Tiếc công mở đời hưởng nghiệp chưa lâu.
Chị em cùng chửa nối sau,
Bảo nhau lập miếu, cùng nhau phụng thờ.
Tiết cao sáng nửa giăng thu,
Trong như nước lọc, sạch như gương mài.
Ơn trên thượng đế xét soi,
Vì chồng bả nghĩa, vì đời ra công.
Nước Nam hễ sái văn cung,
Vua dự công đồng, hành vũ hành vân.
Ngôi cao đệ nhất phúc thần,
400. Đời đời huyết thực, dân dân phù trì.
XXV
Dịp nhân có khách đi về,
Qua từ cảm cảnh, nên thơ bút bài:
Vụ tiên di chủng, xuất hồng nhan.Dễ xui lòng khách vãng lai,
Dũng lược kiêm tư, tuyệt thế gian.
Bán điểm ngân trang, hào khách tụ,
Nhất huy kim thuẫn, Định binh tàn.
Tam Kỳ giang khẩu can qua tẩy,
Bách Việt phong cương nhất đán hoàn.
Công cái đương thời nhân báo tự,
Anh linh trạch cập mãn giang san.
(Nòi giống bà Vụ tiên sót lại sinh người hồng nhan,
Dũng lược gồm đủ, hơn hẳn thế gian.
Đem nửa gia tài thu nạp khách hào kiệt,
Mới giơ giáo vàng mà quân Định đã thua.
Cửa sông Tam Kỳ là nơi rửa giáo mác,
Bờ cõi Bách Việt một mai lấy về.
Công hơn đời bấy giờ, nên người ta thờ đề báo đáp,
Anh linh ơn đức khắp non sông.)