Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi Vanachi vào 04/06/2008 12:23, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 02/05/2024 20:15
繄人文之未宣兮,隱太璞之醇質。
爰結繩以為約兮,固未知夫紀述。
偉羲軒之聖神兮,原天道而建極。
造書契以利用兮,協斯文於載籍。
立史官以持法兮,正君臣之典則。
迨堯舜之繼統兮,功有光於前日。
禹湯儼以祇敬兮,桀紂縱以暴虐。
文武穆以懿恭兮,幽厲昏而戕賊。
彼以德而興隆兮,此以昏而喪國。
誰秉筆而直書兮,具昭昭於史冊。
嗟!姬轍之東遷兮,王綱頹而弗植。
干戈滿於宇內奚,人禽獸而相食。
臣弒君而子弒父兮,彞倫從而泯息。
確董狐之特立兮,思古人之是式。
常褰褰而匪窮兮,盡忠誠於史職。
驅雷霆以奮威兮,定鑑衡於胸臆。
孰非善之可稱兮,孰非惡而可黜。
執筆直以大書兮,無毫釐之敢忒。
明萬古之是非鼷,正當時之得失。
褒貶嚴於賞罰兮,議論斷於斧鑕。
慨靈公之無道兮,務厚斂於生民。
殺宰夫之胹熊兮,從臺上以彈人。
日康娛而不已兮,宣子諫而彌嗔。
乃命麑以擊殺兮,麑觸槐而斃。
復設酒以嗾獒兮,獒躇階而追噬。
宣子懼而亡走兮,晉國亂以紛紛。
分襲殺於桃園兮,奈臣子之忍聞。
盾聞之而復泣兮,跡似邇於殺君。
亡不越境以絕分兮,歸不討賊以酬恩。
伊!去就並失義兮,固難逃其責云。
偉太史之筆法兮,揭君臣之大義。
書有罪以示朝兮,不手殺而曰殺。
捨操戈而誅同室兮,原正卿之有意。
名夷皋以顯惡兮,示君德之靡懿。
一落筆而兩罪彰兮,得春秋之微旨。
方含毫而濡墨兮,鬼神驚而影避。
排重門而啟牘兮,書大惡而不諱。
扶王綱於既壞兮,振王法於已墜。
凜勁氣於鋩端兮,垂深戒於後世。
于以閉小人之邪心兮,于以警後王之肆志。
于以謹履霜之漸兮,于以防堅冰之至。
亂臣聞之而禠魄兮,賊子見之而喪氣。
顧史佚之前聞兮,視董狐而有愧。
懿仲尼之法天兮,患前史之倒置。
因舊文而筆削兮,斷忠邪之誠偽。
謂狐筆之為真兮,故不竄於一字。
使千載之逆亂兮,尚聞風而惴惴。
自非胸中明鏡,筆下春秋兮,曷能至是。
宜乎左氏書之,為古良史兮,歷千載而不泯其義。
嗟予生之戇直兮,仰前聖而自企。
拊麟經而增欷兮,紉中正以自佩。
伊欲紙青天而筆太華兮,庶乎書聖朝之祥瑞而已。
Ê nhân văn chi vị tuyên hề, ẩn thái phác chi thuần chất.
Viên kết thằng dĩ vi ước hề, cố vị tri phù kỷ thuật.
Vĩ Hy Hiên chi thánh thần hề, nguyên thiên đạo nhi kiến cực.
Tạo thư khế dĩ lợi dụng hề, hiệp tư văn ư tải tịch.
Lập sử quan dĩ trì pháp hề, chính quân thần chi điển tắc.
Đãi Nghiêu, Thuấn chi kế thống hề, công hữu quang ư tiền nhật.
Vũ, Thang nghiễm dĩ chỉ kính hề, Kiệt, Trụ túng dĩ bạo ngược.
Văn, Vũ mục dĩ ý cung hề, U, Lệ hôn nhi tường tặc.
Bỉ dĩ đức nhi hưng long hề, thử dĩ hôn nhi táng quốc.
Thuỳ bỉnh bút nhi trực thư hề, cụ chiêu chiêu ư sử sách?
Ta! Cơ triệt chi đông thiên hề, vương cương đồi nhi phất thực.
Can qua mãn ư vũ nội hề, nhân cầm thú nhi tương thực.
Thần thí quân nhi tử thí phụ hề, di luân tòng nhi dẫn tức.
Xác Đổng Hồ chi đặc lập hề, tư cổ nhân chi thị thức.
Thường kiển kiển nhi phỉ cùng hề, tận trung thành ư sử chức.
Khu lôi đình dĩ phấn uy hề, định giám hành ư hung ức.
Thục phi thiện chi khả xưng hề, thục phi ác nhi khả truất.
Chấp bút trực dĩ đại thư hề, vô hào ly chi cảm thắc.
Minh vạn cổ chi thị phi hề, chính đương thời chi đắc thất.
Bao biếm nghiêm ư thưởng phạt hề, nghị luận đoạn ư phủ chất.
Khái Linh Công chi vô đạo hề, vụ hậu liễm ư sinh dân.
Sát tể phu chi nhi hùng hề, tòng đài thượng dĩ đạn nhân.
Nhật khang ngu nhi bất dĩ hề, Tuyên Tử gián nhi di sân.
Nãi mệnh Nghê dĩ kích sát hề, Nghê xúc hoè nhi tễ.
Phục thiết tửu dĩ thốc ngao hề, ngao sước giai nhi truy phệ.
Tuyên Tử cụ nhi vong tẩu hề, Tấn quốc loạn dĩ phân phân.
Phân tập sát ư đào viên hề, nại thần tử chi nhẫn văn.
Thuẫn văn chi nhi phục khấp hề, tích tự nhĩ ư sát quân.
Vong bất việt cảnh dĩ tuyệt phận hề, quy bất thảo tặc dĩ thù ân.
Y! Khứ tựu tịnh thất nghĩa hề, cố nan đào kỳ trách vân.
Vĩ Thái sử chi bút pháp hề, yết quân thần chi đại nghĩa.
Thư hữu tội dĩ thị triều hề, bất thủ sát nhi viết sát.
Xả thao qua nhi tru đồng thất hề, nguyên Chính Khanh chi hữu ý.
Danh Di Cao dĩ hiển ác hề, thị quân đức chi mỹ ý.
Nhất lạc bút, nhi lưỡng tội chương hề, đắc Xuân thu chi vi chỉ.
Phương hàm hào nhi nhu mặc hề, quỷ thần kinh nhi ảnh tị.
Bài trùng môn nhi khải độc hề, thư đại ác nhi bất huý.
Phù vương cương ư ký hoại hề, chấn vương pháp ư dĩ truỵ.
Lẫm kình khí ư mang đoan hề, thuỳ thâm giới ư hậu thế.
Vu dĩ bế tiểu nhân chi tà tâm hề, vu dĩ cảnh hậu vương chi tứ chí.
Vu dĩ cẩn lý sương chi tiệm hề, vu dĩ phòng kiên băng chi chí.
Loạn thần văn chi nhi ty phách hề, tặc tử kiến chi nhi táng khí.
Cố sử dật chi tiền văn hề, thị Đổng Hồ nhi hữu quý.
Ý Trọng Ni chi pháp thiên hề, hoạn tiền sử chi đảo trí.
Nhân cựu văn nhi bút tước hề, đoán trung tà chi thành nguỵ.
Vị Hồ bút chi vi chân hề, cố bất soán ư nhất tự.
Sử thiên tải chi nghịch loạn hề, thượng văn phong nhi chuý chuý.
Tự phi hung trung minh kính, bút hạ Xuân thu hề, hạt năng chí thị.
Nghi hồ Tả thị thư chi, vi cổ lương sử hề, lịch thiên tải nhi bất dẫn kỳ nghĩa.
Ta dư sinh chi cống trực hề, ngưỡng tiền thánh nhi tự xí.
Phủ Lân kinh nhi tăng hy hề, nhận trung chính dĩ tự bội.
Y dục chỉ thanh thiên nhi bút Thái hoa hề, thứ hồ thư thánh triều chi tường thuỵ nhi dĩ.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 04/06/2008 12:23
Khi nhân văn chưa hiện ra thì như thuần chất còn ẩn trong hòn ngọc thái phác.
Chỉ thắt nút dây để làm ước hẹn, vì hồi bấy giờ chưa biết chép ghi.
Lớn lao thay vị thần thánh Hy Hiên, căn cứ vào đạo trời mà lập ra đạo “đại trung” để dây dân.
Đặt ra văn tự để tiên dùng, lấy chữ nghĩa để mà ghi chép.
Lập ra sử quan để giữ gìn phép tắc, làm ngay ngắn mối quan hệ giữa vua tôi.
Đến khi Nghiêu Thuấn nối ngôi, công nghiệp lại rỡ ràng hơn thuở trước.
Vũ Thang khép mình nên cung kính, Kiệt Trụ buông lỏng nên bạo tàn.
Văn Vũ hoà mục mà khiêm cung, U Lệ hôn mê mà tàn bạo...
Người lấy đức để dấy nền thịnh trị, kẻ tối tăm nên làm mất nước nhà.
Ai cầm bút ghi chép thẳng thắn mà được nêu đầy đủ rõ ràng nơi sử sách?
Ôi! Từ khi bánh xe họ Cơ dời sang phía đông, kỷ cương của nhà vua suy đồi không dựng lại được.
Giáo mác ngổn ngang bờ cõi, người hoá ra cầm thú ăn thịt lẫn nhau.
Tôi giết vua, con lại giết cha, luân thường theo đó mà mai một.
Đúng Đổng Hồ là người kiệt xuất, lo giữ gìn khuông mẫu người xưa.
Thường khó nhọc quên cả thân mình, hết lòng thành để viết sử.
Cầm cân nảy mực trong tâm tư, dồn sấm sét ra uy nơi ngọn bút.
Khen điều gì không ngoài cái ác, cầm bút chép một cách thẳng thắn, dù mảy may chẳng dám đơn sai.
Làm sáng tỏ đúng sai muôn thuở, vạch rõ ra sự được mất đương thời.
Khen chê thì nghiêm khắc ở điều thưởng phạt, nghị luận thì dứt khoát như lưỡi búa rìu.
Căm giận thay Linh Công vô đạo, chỉ chuyên nghề bòn rút sinh dân.
Giết kẻ ninh châu gấu chẳng nhừ, từ đài cao bắn người vô tội.
Vui thoả thích hàng ngày không nghỉ, Tuyên Tử can y càng nổi giận.
Sai Sư Nghê giết Triệu Thuẫn đi, Nghê đâm đầu vào gốc hoè tự tận.
Bầy tiệc rượu suỵt chó ngao ra, ngao vượt thềm đuổi cắn.
Tuyên Tử sợ chạy ra ngoài cõi, nước Tấn từ đó loạn bời bời.
Đến vườn đào, Triệu Xuyên giết [Linh Công], đạo thần tử nỡ nào nghe việc ấy.
Thuẫn nghe xong nước mắt đầm đìa, nhưng hình tích gần như kẻ giết vua là Thuẫn vậy.
Vì đã chạy trốn sao không ra khỏi bồ cõi để dứt khỏi chức phận, đã trở về sao không trừ loạn tặc để trả ơn vua.
Ôi! Đi hay về đều là thất nghĩa, cho nên khó tránh được trách nhiệm của mình vậy.
Lớn lao thay bút pháp của Thái sử, nêu lên nghĩa lớn của vua tôi.
Chép tội giết vua để răn bảo triều đình, không tự tay giết mà xem như đã giết.
Tha kẻ cầm giáo mà trách kẻ cùng nhà, vì thực ra Chính Khanh có ý.
Nêu tên Di Cao để làm sáng tỏ điều ác, cho mọi người thấy đức của nhà vua không tốt.
Bút vừa hạ, hai tội đã rõ ràng, quả phù hợp với ý nghĩa sâu xa của kinh Xuân thu.
Khi ngọn bút vừa dầm xuống mực, quỷ thần kinh mà lánh bóng xa.
Đẩy mấy lần cửa mà mở then ván ra, ghi tội lớn chẳng hề kiêng nể.
Cứu kỷ cương vương đạo đã suy đồi, dựng lại phép tắc nhà vua đã nghiêng đổ.
Dồn sức mạnh lên đầu ngọn bút, rủ lời răn sâu đến đời sau.
Lấy đó mà ngăn lòng tà của bọn tiểu nhân, đe cuồng chí của vua nối nghiệp.
Lấy đó mà thận trọng khi vừa dẫm sương mai, lo trước lớp băng dày sẽ tới.
Loạn thần nghe vậy thấy hồn bay, tặc tử nhìn vào e táng khí.
Ngẫm Sử Dật trước thường nghe tiếng, so Đổng Hồ sao khỏi thẹn thùng.
Đẹp đẽ thay Khổng Tử dựa theo trời, lo sử trước chép lời điên đảo.
Theo văn cũ mà sửa sang chép lại, chia gian ngay phải trái tỏ tường.
Cho rằng bút Đổng Hồ là thực, nên một lời cũng chẳng chép sai.
Khiến bọn nghịch loạn hàng ngàn năm nữa, nghe tiếng tâm vẫn phải e dè.
Nếu chẳng phải là gương sáng ở trong lòng, Xuân thu bút lực sao có thể làm như vậy được?
Thật đáng cho họ Tả chép vào làm bộ sử tốt của đời xưa, trải ngàn năm vẫn còn nguyên ý nghĩa.
Ôi! Thân ta cương trực, ngước theo tiên thánh gượng theo đòi.
Vỗ Lân kinh mà than thở, đem điều trung chính xe lại mà đeo.
Muốn lấy trời xanh làm giấy, núi Thái Hoa làm bút, ngõ hầu ghi chép điềm lành của thánh triều mà thôi.