Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Huy Cận » Trời mỗi ngày lại sáng (1958) » Tập thơ vùng mỏ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi hang1012 ngày 17/01/2010 08:24
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi hang1012 ngày 17/01/2010 08:24
Có 4 người thích
Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những người dân chài “kéo xoăn tay chùm cá nặng”, kéo xoăn tay là một động tác kéo căng khoẻ và đẹp. Ta hình dung ra bao nhiêu cơ man là cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng. Hình ảnh ẩn dụ “chùm cá nặng” gợi tả việc được mùa cá, đó là thành quả lao động đầy mĩ mãn của người dân chài sau một chuyến ra khơi. Những con cá “tươi ngon thân bạc trắng” được kéo từ biển lên, vẩy và đuôi như phản chiếu ánh rạng đông rực rỡ. “Bạc” và “vàng” là những định ngữ nghệ thuật tượng trưng cho sự giàu có trù phú của biển khơi, đồng thời nó cũng thể hiện tấm lòng trân trọng thành quả lao động của người dân chài, phải chăng đó chính là lòng biết ơn sâu nặng của họ đối với người mẹ biển cả? Công việc diễn ra khẩn trương hối hả “lưới xếp buồm lên”, ba chữ “đón nắng hồng” thể hiện tâm trạng sảng khoái, phấn chấn của người ngư dân, có lẽ, họ đang muốn chia sẻ niềm vui ấy với mặt trời, với bình minh (những người bạn thiên nhiên hết sức thân thiết của con người)?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:32
Có 2 người thích
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ hay của Huy Cận sáng tác sau năm 1945. Đài thơ thể hiện tình yêu quê hương, niềm phấn khởi tin và tin yêu vào cuộc sống. Tinh thần của bài thơ thể hiện rõ nhất trong hai khổ thơ đầu và khổ thơ cuối.
Khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
Mặt trời xuống biển như hòn lửa. Phép nhân hoá độc đáo: “mặt trời xuống biển”. Hình ảnh so sánh tuyệt đẹp “như hòn lửa”, ở hướng tây, mặt trời chìm xuống mặt biển như một khối lửa đỏ rực. Ánh sáng tắt dần đến đâu, hoàng hôn ngập tràn đến đó…
Rồi màn đêm sụp xuống. Phép nhân hoá được tiếp tục sử dụng với các động từ dứt khoát: “cài”, “sập”:
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.Vũ trụ bao la đã kết thúc một ngày, không gian mênh mông trên biển cả dần chìm vào bóng đêm.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.Đoàn thuyền đánh cá ra đi trong tiếng hát. Cả đoàn thuyền với nhiều cánh buồm ra khơi. Không chỉ những luồng gió đã làm câng buồm mà còn cổ cả những câu hát. Tiếng hát của những người đánh cá hoà vào gió biển khơi làm nở thêm những cánh buồm đang lộng gió:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.Hình ảnh hai câu thơ sau như đối lập với hai câu thơ đầu. Vũ trụ nghỉ ngơi, con người hoạt động. Thiên nhiên tĩnh lặng, con người lao động khẩn trương, náo nhiệt.
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiCách sử dụng từ thật gợi tả: thuyền chạy đến đâu, mặt trời như soi rọi ánh nắng đến đấy, thuyền như đang chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mớiÁnh nắng mặt trời phản chiếu lên muôn vạn mắt cá, thành muôn vạn mặt trời nhỏ, góp thêm ánh sáng rực rỡ cho bình minh trên biển:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.Trong khoảng không gian huy hoàng ấy, đoàn thuyền đánh cá trở về với niềm vui náo nức… Tất cả thể hiện niềm phấn khởi, lòng tin yêu vô hạn vào cuộc sống mới đang diễn ra từng giờ, từng phút trên quê hương.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:41
Có 1 người thích
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Ông đã để lại chó đời nhiều áng văn hay, nổi tiếng. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được viết khi ông đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, tiếp xúc với cuộc sống lao động và niềm vui trước cuộc sống mới của nhân dân.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “mặt trời”, nó được ví như quả cầu lửa khổng lồ đang dần dần chìm xuống biển khơi. Ánh sáng rực rỡ, huy hoàng được bùng cháy trước khi lịm tắt. Theo nhịp tuần hoàn của thời gian, vũ trụ đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, được tác giả nói rõ hơn trong các phép nhân hoá:
Mặt trời xuống biển như hòn lửaCảnh trời biển quê hương đã được Huy Cận giới thiệu một cách tài tình. Mặt trời lặn, sóng cài then giữ chặt cánh cửa đêm. Màn đêm buông xuống, con người đã bắt dầu một buổi lao động đầy hăng say, náo nức. Công việc đánh, cá vốn rất nguy hiểm, lại vào ban đêm nên càng nhọc nhằn gấp bội. Nhưng người đánh cá trong bài thơ này hiện lên với tinh thần sôi nổi bởi họ làm chủ được công việc, làm chủ thiên nhiên và cả bản thân mình. Họ cất lên tiếng hát để quên đi cực nhọc và như muốn góp cùng với gió làm căng những cánh buồm để chiếc thuyền băng băng trên biển cả:
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!Vùng biển quê hương thật giàu và đẹp. Biển lấp lánh những đàn cá thu như đoàn thoi dệt vào lòng biển. Đấy là một loài cá ngon nổi tiếng. Không những thế, những đàn cá ấy còn mang một vẻ đẹp diệu kì với muôn luồng sáng loang loáng dưới đại dương. Câu cầu khiến “Đến dệt lưới ta đàn cá ơi!” đã thể hiện một niềm hi vọng, ao ước của những người chài lưới muốn có một chuyến đi bội thu. Người dân chài đã bộc lộ niềm vui trước, biển trời.
Cá nhụ, cá chim, cùng cá đéNhờ có trí tưởng tượng như thế nên Huy Cận đã miêu tả các loài cá hết sức đẹp và đặc sắc. Cá vốn là một con vật hết sức bình thường nhưng ông đã chắp cánh cho nó trở nên hết sức huyền ảo. Sự tài hoa của ngòi bút Huy Cận đã được phát huy khá rõ nét. Tất cả tiếng sóng biển, tiếng cá quẫy, tiếng gió thổi đã tạo thành một hợp âm rì rào ở biển Hạ Long về đêm. Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp đã được vẽ nên bằng ngôn từ, nhờ cây bút tài hoa của Huy Cận.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát bài ca gọi cá vào,Khi đoàn thuyền ra khơi, con người cất lên tiếng hát; khi đoàn thuyền đánh cá trên biển và kể cả lúc trở về bên thì người lao động cũng đều hát. Họ vượt lên mọi khó khăn nguy hiểm để cất lên những câu hát yêu đời.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Gửi bởi Nguyễn Sơn ngày 02/02/2015 20:43
Câu 1
a. Bố cục bài thơ: gồm 3 đoạn:
- Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu là cảnh đoàn thuyền đánh cá lên đường và tâm trạng náo nức của con người.
- Đoạn 2: Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
- Đoạn 3. Còn lại là cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh.
b. Không gian và thời gian miêu tả trong bài thơ:
- Không gian là mặt biển bao la, rộng lớn với sự hiện diện của mặt trời, mặt biển, trăng sao, mây, gió.
- Thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ: Từ lúc hoàn hôn buông xuống, trời biển vào đêm đến lúc mặt trời đội biển nhô lên, một ngày mới bắt đầu. Nhịp tuần hoàn của vũ trụ điểm nhịp thời gian cho đoàn thuyền đánh cá làm việc.
Câu 2. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc về thiên nhiên vũ trụ và cảm xúc về lao động, người lao động
- Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Vũ tru đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian: Mặt trời lặn, sóng cài chặt cánh cửa đêm đen. Con người bắt đầu một đêm lao động hào hứng phấn chấn:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa“Câu hát”, “Buồm”, “Gió khơi” vốn là ba sự vật rất khác nhau nay được nối kết lại trong một liên tưởng mới mẻ, tạo thành hình ảnh đẹp và lạ. Câu hát như thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền đi nhanh hơn. Câu hát như tràn ngập cả mặt biển. Ngay từ khổ thơ đầu ta đã thấy cảnh đoàn thuyền ra khơi trong một tâm trạng hứng khởi, hưa hẹn nhiều điều tốt đẹp.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Thuyền ta lái gió vơi buồm trăngCon thuyền đánh cá vốn gần gũi với chúng ta, nhỏ bé trước mặt biển bao la, giờ đây đã trở thành con thuyền khổng lồ, hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên. Những hình ảnh “Lái gió”, “Buồm trăng”, “Mây cao”, “Biển bằng”… đã khiến con thuyền đánh cá hằng ngày trở thành con thuyền kỳ vĩ, lướt giữa cõi tiên, giữa mây cao cùng trăng gió. Trời biển giao hoà làm một. Giữa vũ trụ mênh mang là hình ảnh con thuyền đang “Dàn đan thế trận” vây đàn cá. Hình ảnh thơ mang đầy chất lãng mạn, khiến cho những con thuyền đánh cá và công việc đánh cá vất vả biến thành công việc thần tiên, đầy ắp nềm vui, chan chứa lòng yêu đời. Thiên nhiên tham gia vào công việc lao động. Song trên nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người vẫn hiện lên trong tư thế làm chủ, tư thế của người chiến sĩ “Dàn đan thế trận’ đánh bắt cá. Hình ảnh người lao động hiện lên thật đẹp, vẻ đẹp dũng mãnh trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Cảnh này là mình chứng cho thấy thơ Huy Cận là sự tiếp nối giao hoà giữa con người với vũ trụ cao rộng, vừa bí ẩn, vừa gần gũi.
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Ta hát bài ca gọi cá vàoLàm cho công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca lao động vui tươi nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Trí tưởng tượng ấy đã nối dài, chắp cánh cho hiện thực trở nên kỳ ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có của thiên nhiên.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vào choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Mặt trời xuống biển như hòn lửaNhà thơ so sánh mặt trời như một hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Trời biển có sự giao hoà trọn vẹn. Mặt biển mênh mông, mát mẻ kia sẽ làm cho “Hòn lửa” mặt trời dịu êm đi. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, có màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian.
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Gửi bởi Nguyễn Sơn ngày 02/02/2015 20:53
Có 2 người thích
Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.
Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăngThuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như một chiến sĩ.
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thuỷ triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến.
Ta hát bài ca gọi cá vào,Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỏ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá tư nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹNhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc bức tượng đồng về người ngư dân:
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng loé rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang chạy đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả.
Gửi bởi Hoang Long ngày 22/05/2015 22:19
Có 1 người thích
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:
Mặt trời xuống biển như hòn lửaBằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “hòn lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan toả. Với nghệ thuật nhân hoá “sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hát rằng cá bạc biển đông lặngCâu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét snags tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi
Thuyền ta lái gió với buồm trăngCó thể nói rằng, toàn bộ khổ thơi là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh: mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “Lái gió” “buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hang hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Lướt giữa may cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Cá nhụ cá chim cùng cá đéNếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao: “cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.
Cá song lấp lánh đuộc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long
Ta hát bài ca gọi cá vàoNếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đinh những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Sao mờ kéo lưới kịp trời sángThời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hang hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lơn “chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.
Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Câu hát căng buồm cùng gió khơiMột điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nàh thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình.
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.