Tạo ngày 24/05/2015 10:07 bởi
Vanachi Hoàng Đạo Thành (?-1908) là một sử gia Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và là một chí sĩ hoạt động trong Phong trào Duy Tân. Ông cũng là cha của nhà văn hoá Hoàng Đạo Thuý. Nguyên tên của ông là Cung Đạo Thành, hiệu Cúc Lữ, quê ở làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay là quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Thời trẻ, trước khi thi Hương, ông đổi sang họ Hoàng. Năm Giáp Thân (1884), ông đỗ cử nhân ở trường thi Thanh Hoá, cùng khoa với Đào Nguyên Phổ. Sau đó, ông ra làm quan, nhận chức các chức giáo thụ ở các huyện Quốc Oai, Hoài Đức, Từ Sơn v.v...; rồi chức tri huyện Quế Dương, đồng tri phủ phân phủ Thuận Thành (Bắc Ninh). Đến năm 1902, ông về trí sĩ và tập trung san định lại hai tác phẩm Việt sử tân ước toàn biên và Đại Nam hành nghĩa liệt nữ truyện. Cả hai tác phẩm đều đã được ấp ủ từ trước, nhưng chỉ đến lúc hưu trí ông mới tu đính lại. Ông cùng Đào Nguyên Phổ và các chí sĩ khác hoạt động trong Phong trào Duy Tân bằng năng khiếu thơ văn của mình. Tên ông được đặt cho phố Hoàng Đạo Thành, phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Ông nổi tiếng có tài và có nhiều tác phẩm văn thơ:
- Đại Nam hành nghĩa liệt nữ truyện
- Việt sử tân ước toàn biên
- Việt sử tứ tự (có bài đề tựa và sự duyệt chính của Tảo Bi Đào Nguyên Phổ, Mai Viên Đoàn Triển và Gia Xuyên Đỗ Văn Tâm, vào năm Bính Ngọ 1906)
Tác phẩm nổi bật nhất của ông là bộ Việt sử tân ước toàn biên (2 quyển) do ông biên soạn là một bộ lược sử Việt Nam, soạn cho các học sinh tiểu học học. Việt sử tân ước toàn biên chép theo niên kỷ từ đời nọ đến đời kia, chỉ chép các sự việc lớn, gọn và rõ, có thể gọi đủ. Sách chép từ Hùng Vương đến hết triều Lê, sau đó phụ bài Tây Sơn thuỷ mạt khảo.
Hoàng Đạo Thành (?-1908) là một sử gia Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và là một chí sĩ hoạt động trong Phong trào Duy Tân. Ông cũng là cha của nhà văn hoá Hoàng Đạo Thuý. Nguyên tên của ông là Cung Đạo Thành, hiệu Cúc Lữ, quê ở làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay là quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Thời trẻ, trước khi thi Hương, ông đổi sang họ Hoàng. Năm Giáp Thân (1884), ông đỗ cử nhân ở trường thi Thanh Hoá, cùng khoa với Đào Nguyên Phổ. Sau đó, ông ra làm quan, nhận chức các chức giáo thụ ở các huyện Quốc Oai, Hoài Đức, Từ Sơn v.v...; rồi chức tri huyện Quế Dương, đồng tri phủ phân phủ Thuận Thành (Bắc Ninh). Đến năm 1902, ông về trí sĩ và tập trung san định lại hai tác phẩm Việt sử tân ước toàn biên và Đại Nam hành nghĩa liệt nữ truyện. Cả hai tác phẩm đều đã…