Hồ Tùng Mậu 胡松茂 (15/6/1896 - 23/7/1951) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng là đảng viên của cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam, thành viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Thanh tra Ban Thanh tra Chính phủ. Ông tên thật là Hồ Bá Cự 胡伯炬, khi xuất dương sang Thái Lan hoạt động mới mang tên Hồ Tùng Mậu và trở thành tên gọi chính thức đến khi qua đời. Ông còn mang nhiều bí danh như: Ích, Lương Tử Anh, Phan Tái, Hồ Mộng Tống, Hồ Quốc Đống. Khi hoạt động ở Hải Phòng thường mang bí danh Ích.
Ông sinh tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa cử, truyền thống yêu nước. Ông nội là Hồ Bá Ôn, đỗ phó bảng làm quan đến chức án sát tỉnh Nam Định, hi sinh khi quân Pháp tấn công tỉnh thành này năm 1883. Cha là Hồ Bá Kiện, nhà nho yêu nước, tham gia Hội Duy Tân, bị bắt giam ở Lao Bảo, cùng một số đồng chí định khởi nghĩa phá nhà lao, địch bao vây bắn chết. Mẹ là Phan Thị Liễu cũng dòng dõi nho gia, đã đem con côi theo Trường Đông Kinh nghĩa thục ở Quỳnh Đôi của các thầy Hồ Phi Thống, Hồ Phi Khoan, những nho sĩ tiến bộ của làng học Quỳnh Đôi.
Cuối tháng 4-1920, Hồ Bá Cự từ giã vợ, con nhỏ cùng Lê Văn Phơn (Hồng Sơn) Ngô Quốc Chính sang Thái Lan, rồi 3 tháng sau được sang Trung Quốc tìm gặp các nhà cách mạng tìm gặp các nhà cách mạng xứ Nghệ đang hoạt động ở đây là Phan Bội Châu, Hồ Ngọc Lãm,... nhưng chỉ gặp được Hồ Ngọc Lãm, nhờ tìm nơi học, nơi kiếm sống. Ở Quảng Châu, Hồ Tùng Mậu xin được vào học trường điện tín. Lúc ấy, các cuộc vận động cách mạng của người Việt ở Quảng Châu khá phân tán, tư tưởng của hai phái già, trẻ lại càng phân tán hơn. Trước tình hình không lợi ấy, Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Sơn lập ra Tâm Tâm xã, tập hợp số thanh niên hăng hái kiên quyết cùng chí hướng, hy sinh quyền lợi cá nhân, cùng nhau mưu đồ giải phóng dân tộc. Mùa xuân năm 1924, Hồ Tùng Mậu về nước, trở lại Quỳnh Lưu, Yên Thành hoạt động với tên Phan Tái. Tháng 11-1924, nhóm Tâm Tâm xã được Nguyễn Ái Quốc giúp đỡ chuyển hướng hoạt động, xây dựng tổ chức cách mạng theo đường lối đúng đắn. Tháng 6-1925, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn giúp Nguyễn Ái Quốc xây dựng Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội trong đó có cộng sản đoàn gồm 5 người Hồ Tùng Mậu cùng tham gia.
Tháng 12-1927, Hồ Tùng Mậu cùng một chiến sĩ Thanh niên Cách mạng đồng chí hội tham gia khởi nghĩa Quảng Châu nên lại bị bắt giam, đến cuối thu năm 1929 mới được tha. Thời gian ở tù, Hồ Tùng Mậu được bầu vắng mặt làm uỷ viên chấp hành Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội tại Đại hội Đại biểu lần thứ I của tổ chức này. Tháng 6-1931 ông lại bị bắt tại Thượng Hải do đế quốc Anh-Pháp liên kết thực hiện. Chúng giải về giam ở nhà lao Hoả Lò, Hà Nội. Toà án Nghệ An kết án tử hình lần thứ 2, do kháng cáo chúng phải sửa xuống án tù chung thân. Từ 12-1931 đến 3-1945, Hồ Tùng Mậu chuyển qua các nhà tù Vinh, Lao Bảo, Kon Tum, Buôn Mê Thuột... Lợi dụng phát-xít Nhật đảo chính Pháp, ông cùng các tù chính trị trốn khỏi căng an trí Trà Khê tỉnh Phú Yên trở về quê hoạt động tại cơ quan Xứ uỷ Trung Kỳ. Sau khởi nghĩa được giao nhiều nhiệm vụ: Phụ trách trường quân chính Nhượng Bạn, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Liên khu IV, Uỷ viên thường vụ Liên khu uỷ, Tổng thanh tra Ban thanh tra Chính phủ, Hội trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị. Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc tháng 2-1951, Hồ Tùng Mậu được bầu làm uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương và vẫn giữ các công tác cũ. Ngày 23-7-1951 trên đường công tác, ông hy sinh do bị máy bay Pháp ném bom.
Hồ Tùng Mậu 胡松茂 (15/6/1896 - 23/7/1951) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng là đảng viên của cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam, thành viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Thanh tra Ban Thanh tra Chính phủ. Ông tên thật là Hồ Bá Cự 胡伯炬, khi xuất dương sang Thái Lan hoạt động mới mang tên Hồ Tùng Mậu và trở thành tên gọi chính thức đến khi qua đời. Ông còn mang nhiều bí danh như: Ích, Lương Tử Anh, Phan Tái, Hồ Mộng Tống, Hồ Quốc Đống. Khi hoạt động ở Hải Phòng thường mang bí danh Ích.
Ông sinh tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa cử, truyền thống yêu nước. Ông nội là Hồ Bá Ôn, đỗ phó bảng làm quan đến chức án sát tỉnh Nam Định, hi sinh khi quân Pháp tấn công…