☆☆☆☆☆ 15.00
Nước:
Ba Lan7 bài thơ
Thơ đọc nhiều nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Tạo ngày 08/12/2007 14:42 bởi
Vanachi, đã sửa 2 lần, lần cuối ngày 02/04/2008 07:02 bởi
Vanachi Edward Stachura (18/8/1937 - 24/7/1979) sinh tại Pont-de-Chéruy, vùng Isère, Pháp, bố mẹ đều là người Ba Lan di cư qua Pháp vì những lý do kinh tế. Năm lên 11 tuổi, ông theo gia đình trở về sống ở Ba Lan, và học xong trung học ở Gdynia năm 1956. Trước khi vào Đại học Công giáo Lublin năm 1959, rồi Đại học Varsovie, chàng sinh viên tương lai Stachura đã có thơ Những giấc mơ tìm thấy lại (1957) và truyện ngắn Jeden dzien (Chỉ một ngày, 1962) đăng trên các tạp chí. Tập thơ Duzo ognia (Rất nhiều ánh lửa, 1963) xuất bản hai năm trước khi ông tốt nghiệp Đại học khoa ngôn ngữ Latinh, với luận văn viết về Henri Michaux. Năm 1966 đánh dấu chuyến đi xa của ông qua Nam Tư cũng là năm ông cho ra đời tập truyện ngắn Falujac na wietrze (Vẫy trong gió), tiếp sau đó là chùm thơ Przystepuje do ciebie (Ta đến gần em,1966/1968) và bài thơ Poogrodzie niech hula szarancza (Hãy để con châu chấu đùa vui trong vườn, 1968). Học bổng mười hai tháng của chính phủ Mexico năm 1969/1970 đã giúp ông làm quen với Mỹ La-tinh, và mở ra nhiều chuyến đi xa sau đó: Trung Đông (1971), Na-uy (1972), Thuỵ Sĩ và Pháp (1973), Hoa Kỳ, Canada và Mexico (1974/1975)... — song song với một loạt sách xuất bản: Siekierezada (Cắt đẽo, tiểu thuyết, 1971), Wszystko jest poezja (Tất cả là thơ, tiểu luận, 1975), Kropka nad ypsylonem (Một chấm trên Epsilon, thơ, 1975), Sie (Mình, văn xuôi, 1974/1977). Trước khi qua đời ở Varsovie, ông còn xuất bản hai tác phẩm Missa pagana (thơ, 1978) và Fabula rasa (văn xuôi, 1979). Tác phẩm cuối cùng của ông có thể là cuốn tự sự Porgodzić się ze śawiatem (Đành chấp nhận thế gian, 1979) viết sau lần nghe “những tiếng nói nội tâm” khiến ông nằm kê tay phải lên đường rầy chờ xe lửa tới cán đứt lìa tháng 4-1979. Sau một thời gian mấy tháng ra vào bệnh viện, kể cả bệnh viện tâm thần, hoặc về quê sống với mẹ để “tìm lại chính mình”, ngày 24-7-1979 ông để lại một bài thơ cuối cùng trên bàn trong căn hộ của mình ở Varsovie, và treo cổ tự vẫn, chấm dứt một cuộc sống, một chuyến đi có nhiều câu hỏi: “chấp nhận thế gian”, như thế, là quá sức đối với một con người như ông.
Thơ Stachura không thường nói đến những chuyện lớn lao. Được biết là một trong những nhà thơ mà nguồn cảm hứng là những bài thơ của Rimbaud, đề tài của ông nằm trong cuộc sống thường nhật và trong chính kinh nghiệm của ông. Nơi nào ông đặt chân đến cũng là nơi ông tìm cách xâm nhập ngôn ngữ, để có thể phá bỏ những qui luật, sáng tạo những từ mới — những dòng thơ ra đời phải nẩy sinh từ một chủ tâm sáng tạo, phải là một tiếng thét. Ngoài các tác giả Pháp như Henri Michaux, Michel Deguy, Baudelaire, Lautrémont, Valéry, Rimbaud… và nhiều ca khúc của Georges Brassens và Jacques Brel, cũng như những bài negro spirituals và những bài ca của người bản xứ ở Mexico, Stachura còn dịch một số các tác giả tiếng Tây Ban Nha như Octavio Paz, Ramon Lopez Velarda, Jorge Luis Borges, Julio Cortazar, Onetti Gabriel, Gabriel Garcia Marquez...
Edward Stachura (18/8/1937 - 24/7/1979) sinh tại Pont-de-Chéruy, vùng Isère, Pháp, bố mẹ đều là người Ba Lan di cư qua Pháp vì những lý do kinh tế. Năm lên 11 tuổi, ông theo gia đình trở về sống ở Ba Lan, và học xong trung học ở Gdynia năm 1956. Trước khi vào Đại học Công giáo Lublin năm 1959, rồi Đại học Varsovie, chàng sinh viên tương lai Stachura đã có thơ Những giấc mơ tìm thấy lại (1957) và truyện ngắn Jeden dzien (Chỉ một ngày, 1962) đăng trên các tạp chí. Tập thơ Duzo ognia (Rất nhiều ánh lửa, 1963) xuất bản hai năm trước khi ông tốt nghiệp Đại học khoa ngôn ngữ Latinh, với luận văn viết về Henri Michaux. Năm 1966 đánh dấu chuyến đi xa của ông qua Nam Tư cũng là năm ông cho ra đời tập truyện ngắn Falujac na wietrze (Vẫy trong gió), tiếp sau đó là chùm thơ…