Bà cô của phủ này,
Cháu gọi là bà nội.
Bà nội khi còn nghèo,
Cùng thượng thư lễ cưới.
Khi đời Tuỳ suy vi,
Phòng, Đỗ cùng qua lại.
Lớn lên ở ngay nhà,
Kiếm ăn gặp năm đói.
Nhà nghèo chẳng có gì,
Thân khách cứ lới xới.
Sau đó quí trọng dần,
Vắng vẻ người đi khỏi.
Thấy lạ với tóc râu,
Lâu rồi từng tức tưởi
Búi tóc tự cắt phăng,
Ra chợ chén rượu đổi.
Đời loạn, theo bậc trên,
Hiền tài cần đối đãi.
Nhòm về một số ông,
Kinh luân đều sành sõi.
Sau hỏi đến trẻ trai,
Mười tám râu tóc rối.
Con em công danh thành,
Tay người này đều gửi.
Dưới nói hợp gió mây,
Rồng hổ cùng tiếng nói.
Xin tỏ chí trượng phu
Dứt được thói con gái.
Tần Vương khi trên đời
Mọi nhà đều sáng chói
Tới Trinh Quán năm đầu,
Thượng thư lên đài chọi.
Bà vợ thường theo xe,
Chúc mừng lên điện bái.
Sáu cung, nhu thuận truyền,
Phi hậu, phép tắc dõi.
Cô, dượng được vua chiều,
Việc tốt sẽ còn mãi.

Phượng non chưa đủ lông,
Các em sức chưa đủ.
Trước kia loạn giặc Hồ,
Đất nước thật tơi tả.
Chú nương tựa nhà người.
Nhà cháu chạy đôn đả.
Lếch thếch chen nhau đi,
Thân này phó gai cỏ.
Ruột cháu ứa sục sôi,
Mười dặm còn than thở.
Ngựa cưỡi nhảy khỏi yên,
Tay phải dao lưng gỡ.
Tay trái neo dây cương,
Chạy bay hất bổng tớ.
Tới giờ còn tính bừa,
Lòng này vẫn ghi nhớ.
Loan ly khi hợp tan,
Tức bừng bừng chuyện cũ.
Hoa nước chê bạc đầu,
Cỏ xuân theo áo nhỏ.
Triều đình điểm chính bàn,
Tập hợp người tài đủ.
Bắc trạm Hán Dương phi,
Nam thuyền sông Lang thả.
Tiếng nhà chẳng rụng rơi,
Sắc bén tựa tơ nhỏ.
Người hiền nhận phiên ngung,
Tính toán như thần độ.
Quan lớn gốc bình dân,
Bòn dân nên bãi bỏ.
Chúa động xin theo hàng,
Sông hồ trăm thuyền đỗ.
Ta muốn luyện thuốc tiên,
Lê lết thấy thân khổ.
Sao mãi nơi bùn dơ,
Có chí cưỡi lưng cá.
Hoặc bám loan vút trời,
Gò cao hạc đành ở.