Viên đạn cuối cùng
trái lựu đạn cuối cùng đã nổ
và anh yên nằm
bên bờ sông Thu Bồn một buổi sáng tháng năm.

Tôi nhớ nôn nao một buổi trưa nắng rát
tháng ba phát rẫy rừng già
trước ngày đi công tác
Anh xoay trần bước lên giàn hạ cây
bụng đói thắt vung lưỡi rìu vẫn ngọt
mồ hôi sáng chói khuôn mặt gầy
phà khói thuốc
và cười
đọc bài ca dao cổ
mới lượm được trong đời
Bỗng nói miên man về đất về người
đất và người
trần trụi
trước cuộc huỷ diệt quy mô của quân thù cuồng dại
bỗng thấy hiện ra những lều và hầm
trần trụi
cơn gió đêm thổi suốt miệt đồng bằng quánh bụi
lợm tanh mùi hố bom
buổi họp nhân dân tan lúc hai giờ sáng
tíu tít chuyện bà con
bàn kế hoạch chống càn, trụ bám
đầy trời tiếng phản lực âm âm
mùi trầu cay sực nức những căn hầm
một câu ca của bà chị nào phóng ra bất chợt…
giọng cười vang đầy ắp cả chân trời.

… Anh vụt đứng lên:
-“Này, cái rẫy phát gần xong
chúng mình sắp được đi công tác
mình sẽ xin trở lại Quảng Đà”.

Và anh đã về mảnh đất của anh
dọc đường, qua sông Đăk-vin còn viết thư nhắn lại:
“Thời vụ xem chừng cần trỉa lúa cho nhanh
cố gắng năm nay cơ quan mình no hơn năm ngoái
mỗi anh em phải có nửa lon gạo một ngày…”

Tôi cầm thư trong tay
không ngờ được, đây những dòng sau chót

Cuộc đời anh, như mọi người, bắt đầu bằng tiếng khóc
suốt cuộc đời: trong trẻo những dòng thơ
và ở cuối cuộc đời: tiếng nổ
Tôi biết nói gì thêm vào đấy nữa?
Dòng sông Thu Bồn mãi mãi âm vang
sẽ tiếp nối những lời anh dang dở
như một tình yêu không cùng
một tình yêu không cùng
đắm đuối và thuỷ chung.


Rừng căn cứ Trà My, tháng 8.1972

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]