Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 23/05/2015 00:17
南征為客久,
西候別君初。
歲滿歸鳧舄,
秋來把雁書。
荊門留美化,
姜被就離居。
聞道和親入,
垂名報國餘。
連枝不日並,
八座幾時除。
往者胡星孛,
恭惟漢網疏。
風塵相澒洞,
天地一丘墟。
殿瓦鴛鴦坼,
宮簾翡翠虛。
鉤陳摧徼道,
槍櫐失儲胥。
文物陪巡狩,
親賢病拮据。
公時呵猰貐,
首唱卻鯨魚。
勢愜宗蕭相,
材非一范睢。
屍填太行道,
血走浚儀渠。
滏口師仍會,
函關憤已攄。
紫微臨大角,
皇極正乘輿。
賞從頻峨冕,
殊私再直廬。
豈惟高衛霍,
曾是接應徐。
降集翻翔鳳,
追攀絕眾狙。
侍臣雙宋玉,
戰策兩穰苴。
鑒澈勞懸鏡,
荒蕪已荷鋤。
向來披述作,
重此憶吹噓。
白髮甘凋喪,
青雲亦卷舒。
經綸功不朽,
跋涉體何如。
應訝耽湖橘,
常餐占野蔬。
十年嬰藥餌,
萬里狎樵漁。
揚子淹投閣,
鄒生惜曳裾。
但驚飛熠耀,
不記改蟾蜍。
煙雨封巫峽,
江淮略孟諸。
湯池雖險固,
遼海尚填淤。
努力輸肝膽,
休煩獨起予。
Nam chinh vi khách cửu,
Tây hậu biệt quân sơ.
Tuế mãn quy phù tích,
Thu lai bả nhạn thư.
Kinh Môn lưu mỹ hoá,
Khương bí tựu ly cư.
Văn đạo hoà thân nhập,
Thuỳ danh báo quốc dư.
Liên chi bất nhật tịnh,
Bát toạ kỷ thì trừ.
Vãng giả Hồ tinh bột,
Cung duy Hán võng sơ.
Phong trần tương hống động,
Thiên địa nhất khâu hư.
Điện ngoã uyên ương sách,
Cung liêm phỉ thuý hư.
Câu trần tồi kiếu đạo,
Thương lồi thất trữ tư.
Văn vật bồi tuần thú,
Thân hiền bệnh cát cư.
Công thì a khiết dũ,
Thủ xướng khước kình ngư.
Thế khiếp tông Tiêu tướng,
Tài phi nhất Phạm Thư.
Thi điền Thái Hàng đạo,
Huyết tẩu Tuấn Nghi cừ.
Phũ khẩu sư nhưng hội,
Hàm Quan phẫn dĩ sư.
Tử Vi lâm đại giác,
Hoàng cực chính thừa dư.
Thưởng tụng tần nga miện,
Thù tư tái trực lư.
Khởi duy cao Vệ, Hoắc,
Tằng thị tiếp ứng từ.
Giáng tập phiên tường phượng,
Truy phan tuyệt chúng thư.
Thị thần song Tống Ngọc,
Chiến sách lưỡng Nhương Tư.
Giám triệt lao huyền kính,
Hoang vu dĩ hà sừ.
Hướng lai phi thuật tác,
Trùng thử ức xuy hư.
Bạch phát cam điêu táng,
Thanh vân diệc quyển thư.
Kinh luân công bất hủ,
Bạt thiệp thể hà như.
Ưng nhạ đam hồ quất,
Thường xan chiếm dã sơ.
Thập niên anh dược nhị,
Vạn lý hiệp tiều ngư.
Dương tử yêm đầu các,
Trâu sinh tích duệ cư.
Đãn kinh phi dập diệu,
Bất kí cải thiềm thừ.
Yên vũ phong Vu Giáp,
Giang Hoài lược Mạnh Chư.
Thang trì tuy hiểm cố,
Liêu hải thượng điền ư (ứ).
Nỗ lực thâu can đảm,
Hưu phiền độc khởi dư.
Đi về vùng nam mãi mang thân là khách,
Phía tây ở chờ mới chia tay cùng ông.
Cuối năm cái giày của con le trở lại,
Thu về chim nhạn mang thư tới.
Nơi Kinh môn lưu lại công dạy dỗ dân chúng,
Cái mền của họ Khương Hoằng cứ phải sống xa nhau.
Nghe nói con người đi cầu thân kia,
Do giúp nước mà tên tuổi vang lừng.
Liền cành mà không có lúc nào gần gũi,
Có lúc nào xa giới tám vị quan lớn đâu.
Trước kia giặc Hồ nổi lên,
Đắp vá cái nền cai trị của nhà Hán lúc đầu còn non yếu.
Gió bụi cung mịt mờ,
Đất nước một cõi hoang vu.
Ngói hình chim uyên ương lợp mái điện tan tành,
Màn cửa nơi cung điện có dệt hình chim trả nay bỏ hoang.
Hậu cung làm hỏng đường tuần hành,
Cây giúp hàng rào mà làm mất bờ dậu.
Vì di tích lịch sử mà phải tăng việc tuần phòng,
Thân với kẻ hiền gặp cảnh bệnh éo le.
Ông lúc đó đang quát tháo bọn thú dữ,
Cầm đầu việc đẩy lui cá kình.
Thế lực thoả đáng đúng như ý muốn của thừa tướng Tiêu Hà,
Tài đâu phải chỉ có một Phạm Thư.
Thây người chất đống trên đường Thái Hàng,
Máu tràn nơi ngòi Tuấn Nghi.
Vẫn luôn hội quân ở cửa sông Phũ,
Nỗi bực tức vì vụ Hàm Quan đã nguôi đi.
Sao Tử Vi ở vào ngôi sao đại giác,
Uy quyền vua đúng lúc lên cao.
Nhiều lần đội mũ cao đi theo hầu,
Nhờ ơn đặc biệt nên được cử giữ cơ quan gần chỗ vua.
Há chỉ có hai họ Vệ, Hoắc là có chức cao sao,
Ông Cứ thế mà từ từ leo lên.
Như chim phượng hoàng đang bay lượn, xà xuống đậu.
Như con vượn leo trèo tới nơi cao nhất.
Viên quan chầu chực cạnh vua có Tống Ngọc cặp với ông,
Đặt kế hoạch chiến tranh có Điền Nhương Tư sánh cặp với ông.
Soi xét cặn kẽ nên làm tấm gương treo mệt mỏi,
Chốn hoang vu đã được phát quang.
Có sáng tác để lại đời sau,
Cái này thêm vào việc ghi nhớ lúc công danh thành đạt.
Tóc bạc cam chịu cảnh tàn tạ,
Đám mây xanh kia cũng có lúc dãn lúc co.
Công lao hành chính không phải là thứ vô dụng,
Tài ăn nói khéo léo như vậy đó.
Bị ngờ rằng ham quất nơi vùng hồ,
Bữa ăn hàng ngày có sẵn rau ngoài đồng.
Mười năm cứ bị ràng buộc với thuốc thang,
Vạn dặm đú đởn với ông câu, chú tiều.
Chàng họ Dương chết vì nhảy lầu,
Anh họ Trâu than tiếc việc nắm vạt áo.
Đã sợ làm thân con đom đóm bay,
Không nhớ lúc đổi thành con cóc.
Mưa với khói bao phủ Vu Giáp,
Vùng Giang Hoài bỏ rơi đầm Mạnh Chư.
Ao nước sôi tuy hiểm và vững đó,
Nhưng ở biển xa còn bế tắc.
Cố vận dụng lòng can đảm,
Không chỉ mình ta gạt được nỗi buồn.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/05/2015 00:17
Đã từ lâu xuôi nam, thân khách,
Tây ở chờ chia cách cùng ông.
Cuối năm giày le những mong,
Thu đến thư nhạn có công mang về.
Chốn Kinh Môn còn ghi điều tốt,
Phận tuy anh em ruột, sống xa.
Nghe nói cử đi cầu hoà,
Giúp nước tên đã chói loà nơi nơi.
Liền cành mà không thời gần cạnh,
Vì chức cao chẳng rảnh phút giờ.
Trước đó gây rối giặc Hồ
Chính quyền non yếu phải lo giữ phòng.
Giang sơn trải mịt mùng khói bụi,
Đất nước là một bãi gò hoang.
Điện vua tan ngói uyên ương,
Tấm màn cánh trả trong cung bay vù.
Hậu cung lại làm hư phòng thủ,
Cây dựng rào thủng lỗ dậu ngăn.
Di sản gìn giữ lo toan,
Người thân nghèo bệnh gặp hoàn cảnh lo.
Lúc đó ông hét hò quỷ dữ,
Cầm đầu việc ngăn giữ cá kình.
Tiêu thừa tướng mến uy danh,
Phạm Thư nào phải một mình tài hay.
Đường Thái Hàng đống thây chồng chất,,
Ngòi Tuấn Nghi máu thoát đầy tràn.
Cửa sông Phũ vẫn hội quân,
Làm cho nỗi nhục Hàm Quan tan dần.
Rồi vua cũng tới tuần ngự trị,
Ngôi sao trời đúng vị lên ngôi.
Mũ cao luôn được bên người,
Ân sâu nên được giữ nơi kinh thành.
Chức vị lớn há dành Vệ, Hoắc,
Cứ theo đà cất nhắc dần lên.
Phượng bay xà xuống từ trên,
Vượt đàn vượn giỏi leo lên tột đầu.
Cặp Tống Ngọc đứng hầu bên cạnh,
Hai Nhương Tư hoạch định việc quân.
Cẩn tắc khiến mỏi tinh thần,
Gặp cảnh khó xử đã lần tới nơi.
Cho mai sau, trổ tài sáng tác,
Càng ghi thêm công sức của ông.
Tóc bạc cam phận long đong,
Mây trắng co duỗi, cái vòng quẩn quanh.
Kể về việc điều hành sáng chói,
Lại giỏi nghề ăn nói trơn tru.
Tưởng lầm thích quất bên hồ,
Bữa cơm thường có rau bờ bụi hoang.
Suốt mười năm thuốc thang gắn bó,
Vạn dặm cùng bù khú ngư tiều.
Chàng Dương hốt hoảng nhảy lầu,
Anh Trâu tiếc cửa vương hầu náu nương.
Đom đóm bay vẫn thường kinh hãi,
Có nhớ đâu, cóc đổi phận rồi.
Vu Giáp mưa khói phủ dài,
Đầm Mạnh Chư bị Giang Hoài bỏ rơi.
Tuy kiên cố, ao sôi, thành chắc,
Nơi biển xa vẫn nước ứ tràn.
Cố gắng vận dụng tâm can,
Chẳng riêng gì lão tiêu tan nỗi buồn.