自閬州領妻子卻赴蜀山行其一

汩汩避群盜,
悠悠經十年。
不成向南國,
復作遊西川。
物役水虛照,
魂傷山寂然。
我生無倚著,
盡室畏途邊。

 

Tự Lãng Châu lĩnh thê tử khước phó Thục sơn hành kỳ 1

Mịch mịch tị quần đạo,
Du du kinh thập niên.
Bất thành hướng nam quốc,
Phục tác du Tây xuyên.
Vật dịch thuỷ hư chiếu,
Hồn thương sơn tịch nhiên.
Ngã sinh vô ỷ trứ,
Tận thất uý đồ biên.

 

Dịch nghĩa

Rầm rập chạy trốn lũ giặc,
Buồn buồn trải qua mười năm.
Hướng về vùng nam không xong,
Nên lại phải tới Tây Xuyên.
Vật chất sai khiến như nước dồn vào chỗ trống,
Linh hồn đau thương âm thầm như núi kia.
Đời ta không có nơi nương tựa,
Hết nhà ở sợ là phải trú nơi lề đường.


(Năm 764)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Hốt hoảng vội chạy giặc,
Mười năm rồi, liên miên.
Phía nam nhằm đi xuống,
Cuối cùng về Tây xuyên.
Thân hình bãi nước chiếu,
Hồn sầu, núi thản nhiên.
Sảy nhà ra bờ ruộng,
Đời ta không chỗ chen.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Trốn xa lũ giặc rập rầm,
Buồn buồn nếm trải mười năm qua rồi.
Hướng về nam quốc khó thôi,
Nên mình phải tới vùng đồi Tây Xuyên.
Áo cơm như nước dồn nghiêng,
Linh hồn thương xót như miền núi sương.
Đời ta không có nơi nương,
Hết nhà ở sợ lề đường trú thân.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Đời nổi trôi chỉ vì chạy giặc
Lo lắng buồn trải khắp mười năm
Hướng về không được phía nam
Thành ra lại phải tới miền Tây Xuyên
Vật chất như hình trên sông ảo
Hồn đau thương tựa mỏm núi xa
Không nơi nương tựa đời ta
Hết nhà ở sợ phải ra nằm đường.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời