Gần như, bất cứ ai đam mê thơ cũng đều ước mơ đến những nơi như Hoàng Hạc Lâu ở huyện Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc hay bến Phong Kiều bên Hàn San tự ở Tây huyện thuộc tỉnh Giang Tô... Đó là những địa danh nổi tiếng và tồn tại muôn đời với những bài thơ bất tử được lưu truyền như Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu hay
Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế,... Nhưng qua bao nhiêu năm, thường những mơ ước đó vẫn còn y nguyên là ước mơ.
Nhân đọc bài “Đến Hàn San tự để tìm hiểu bài thơ
Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế” của tác giả Nguyễn Quảng Tuân, tôi động lòng lắm, không biết làm sao hơn, đành giở những trang sách cũ, đọc lại bài thơ tuyệt tác này.
Trương Kế vốn là nhà thơ nổi tiếng của thời Thịnh Đường nhưng người ta quên mất năm sinh và năm mất của ông, chỉ biết ông sinh thời vào khoảng những năm trước và sau 756, niên hiệu Chí Đức, đời Đường Túc Tông. Sinh quán của ông ở Tương Châu, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Ông là người thông thái, có kiến thức rộng, say mê đàm luận.
Ông đậu tiến sĩ vào năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo. Ông từng giữ nhiều chức vụ khác nhau, khi mất ông đang làm tài phú ở Hồng Châu. Trương Kế chỉ để lại một tập thơ, trong đó nổi tiếng nhất là bài
Phong Kiều dạ bạc, tức là
Ban đêm thuyền đậu bến Phong Kiều.
Nhân bài viết của tác giả Nguyễn Quảng Tuân có đặt nhiều nghi vấn về những dữ kiện trong bài thơ này, mà những điểm đó đươc ghi nhận qua nhiều tác phẩm biên khảo văn chương của Trung Quốc. Trong khả năng giới hạn của bài viết này, tôi không thảo luận về những nghi vấn được nêu ra, để đưa đến những kết luận thế này hay thế nọ, hoặc đúng hay sai. Mà mục đích của bài viết này, tôi chỉ xin góp vào một chút dữ kiện để bổ túc mà thôi.
Bài
Phong Kiều dạ bạc chỉ vỏn vẹn có bốn câu:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Nguyên bản bài thơ này bằng chữ Hán không có các dấu phết và dấu chấm ở cuối các câu. Nhưng tuỳ theo ý nghĩa của thơ, các tác giả đời sau đã phân đoạn và ngưng câu để thêm các dấu phết và chấm vào. Sự kiện này hay xảy ra, như trường hợp quyển Đạo Đức Kinh của Lão Tử được viết vào khoảng năm 500 đến 450 trước Tây Lịch. Đạo Đức Kinh được khắc trên các thẻ tre, không có dấu chấm phết, nhưng nhiều tác giả đời sau đã tuỳ theo cách đọc mà phân đoạn khác nhau. Mỗi khi các dấu chấm phết xê dịch thì ý nghĩa trong Đạo Đức Kinh thay đổi rất nhiều, có khi khác hẳn nhau.
Trở lại trường hợp bài thơ
Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, tựu trung tác giả Nguyễn Quảng Tuân cũng theo các tác giả đời trước nên bản viết có các dấu phết ở cuối câu một và câu ba, và dấu chấm ở cuối câu hai và câu bố.
Trong bài viết tác giả Nguyễn Quảng Tuân có đưa ra vài nghi vấn như sau:
1. Nghi vấn về những chữ bị xem là địa danh như ô đề trong câu một và sầu miên trong câu hai.
2. Quạ có kêu trong đêm hay không?
3. Chùa Hàn San nói riêng hay chùa nói chung, có đánh chuông vào nửa đêm hay không?
Tôi xin góp vào một số ý kiến bổ túc như thế này.
1. Tuỳ theo cách đọc, ta thử ngắt câu bằng các dấu chấm và phết.Câu một:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên, (a)
(Cách ngắt câu và chữ theo tác giả Trần Trọng San) (1)
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, (b)
(Cách ngắt câu và chữ theo tác giả Nguyễn Quảng Tuân)
Bây giờ tôi ngắt câu và chữ khác đi đôi chút:
Nguyệt lạc ô đề, sương mãn thiên, (c)
Khi đọc, nếu ngắt câu khác nhau ý nghĩa câu thơ có thể khác nhau:
Trăng lặn, quạ kêu, trời đầy sương, (a)
Trăng lặn quạ kêu trời đầy sương, (b)
Trăng lặn trên núi Ô Đề, trời đầy sương, (c)
Như vậy, tuỳ theo cách ngắt câu, ô đề có thể là địa danh.
Nếu xét thêm về yếu tố địa dư, ở đất Ngô huyện thuộc tỉnh Giang Tô không có núi nào tên là Ô Đề.
Nếu xét về ý thơ, với tài thơ của Trương Kế, thi nhân đang ngao du thuyền trên sông và đậu lại ở bến Phong Kiều, cảnh sắc hữu tình như vậy, không có lý do gì ông lại mô tả cảnh sắc trên núi Ô Đề ở mãi tận đâu xa (nếu quả thật có núi Ô Đề đi nữa). Thêm vào đó, trên thuyền ở bến Phong Kiều, như tác giả Nguyễn Quảng Thân đã nói, chưa chắc gì đã thấy được núi Ô Đề (nếu có). Dù cho ở thời Trương Kế, dân cư thưa thớt, nhà cửa ít oi và nhỏ thấp.
Trong các cách ngắt câu khác nhau, tôi thích cách của tác giả Trần Trọng San hơn:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Đến nghi vấn về chữ “sầu miên” trong câu hai:
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên. (2)
Về địa dư, đất Ngô huyện thuộc tỉnh Giang Tô không có núi nào tên là Sầu Miên. Theo tác giả Nguyễn Quảng Tuân, có lẽ tên chùa là Hàn San, san có nghĩa là sơn, là núi, nên có tác giả đã nghĩ như vậy.
Theo sách sử Trung Hoa để lại, vào đời đường cách 10 dặm ở phía tây đất Ngô huyện thuộc tỉnh Giang Tô có ngôi chùa do hai nhà sư tên là Hàn San và Thập Đắc trụ trì. Như vậy, người ta đã lấy tên của vị sư trụ trì để đặt tên cho ngôi chùa.
Hơn nữa, về ý thơ, nếu tác giả nào cho chữ Sầu Miên là tên một ngọn núi thì người ấy quả tình đã xem thường Trương Kế quá nhiều. Với tài thơ Trương Kế, chúng ta có thể quả quyết được rằng, sầu miên không phải là tên một ngọn núi.
2. Đến nghi vấn, quạ có kêu trong đêm hay không?Thông thường, nói đến quạ người ta nghĩ ngay đến quạ đen. Tôi chưa hề thấy quạ trắng bao giờ. Chỉ có một loài quạ hiếm quý, không đen hoàn toàn là loài quạ khoang ở miền Bắc và Bắc Trung phần. Loài quạ này cũng đen gần hết, chỉ có ánh đỏ tím và khoang trắng ở cổ và ngực. Theo tôi biết, loài quạ có kêu trong đêm, thường là lúc gần sáng. Quạ có khi đi riêng rẻ hay từng bầy, đến đậu trên những cây cao, kêu đến đinh tai nhức óc.
Trong bài thơ, Trương Kế chỉ rằng nửa đêm, có thể là nửa đêm về sáng. Loài quạ có thể kêu sớm hơn, chuyện này,tôi thiết tưởng không nên đặt thành vấn đề. Hơn nữa, nhà thơ Quách Tấn của chúng ta cũng có bài thơ “Đêm thu nghe quạ kêu” (3)
3. Chùa Hàn San nói riêng hay chùa nói chung có đánh chuông về đêm hay không?Chúng ta đều biết chùa nào cũng đánh chuông công phu, thường khoảng ba hay bốn hoặc năm giờ sáng, tuỳ nơi.
Theo sử sách Trung Hoa viết lại, căn cứ vào tài liệu của tác giả Trần Trọng San (4), tôi xin ghi lại câu chuyện về Trương Kế và bài
Phong Kiều dạ bạc. Chuyện này giải thích rất rõ ràng về tiếng chuông chùa Hàn San vào lúc nửa đêm.
Chuyện ghi rằng, vào đêm Trương Kế đậu thuyền tại bến Phong Kiều, không phải chỉ có một mình thi nhân không ngủ được mà có đến hai người khác nữa cũng trằn trọc không sao an giấc. Hai người này say mê thơ, chắc cũng không kém nhà thơ Trương Kế. Người thứ nhất là sư cụ trụ trì chùa Hàn San. Nhà sư thao thức không ngủ được, có lẽ vì cảnh sắc quá đẹp ở bến Phong Kiều chăng, nên suy tư để làm một bài thơ thất ngôn tuyệt cú. Nhưng nhà sư chỉ làm được hai câu đầu rồi bị ngưng trệ ở đó, không sao làm tiếp được. Lúc đó, nhà thơ Trương Kế ở dưới thuyền cũng thao thức vì cảnh đẹp thiên nhiên và làm chỉ được hai câu đầu mà thôi. Nhà thơ không nghĩ ra được hai câu tiếp.
Trong khi đó có người thứ ba cũng trằn trọc trong đêm là chú tiểu trong chùa. Chú tiểu cũng là người say mê thơ. Lúc đó, sư cụ trụ trì thấy chú tiểu còn thức bèn đưa hai câu thơ mà nhà sư làm ra nhưng không thể làm tiếp được kể kết thúc bài thơ. Chú tiểu vừa đọc qua hai câu đầu của sư cụ liền viết ra ngay hai câu sau. Sư cụ đọc qua, ráp nhau lại, nhận thấy cả bài thơ bốn câu hay quá. Nhà sư mừng rỡ, cho rằng Phật Tổ đã linh thiêng giúp đỡ cho hai người. Sư cụ bảo chú tiểu thắp hương, thỉnh chuông để tạ ơn Phật. Tiếng chuông chùa Hàn San vang ra trong đêm. Lúc đó, Trương Kế đang thao thức suy nghĩ về hai câu thơ sau, thì tiếng chuông chùa Hàn San vang ngân lên, lập tức nhà thơ viết liền ra hai câu sau, hoàn thành bài thơ tuyệt tác để lại cho đời sau.
Cảnh sắc lúc đó, sương phủ mờ cả dòng sông và bến đậu, trăng xế ngang đầu. Chiếc thuyền của nhà thơ Trương Kế đậu lẻ loi bên bến Phong Kiều. Trên bờ, ngoài thành Cô Tô, chùa Hàn San mờ ảo trong đêm. Tiếng chuông chùa ngân vang, lay động cả màn sương và bật mở hồn thơ Trương Kế.
Bài thơ
Phong Kiều dạ bạc thật tuyệt.
Chúng ta đọc lại lần nữa nhé.
Câu đầu, thơ đi nhịp nhàng, lửng thửng như nhà thơ đang nhàn du trong sương, dưới trăng:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Câu hai, thơ như chậm lại bên hàng cây phong, dưới sông thấp thoáng ánh lửa thuyền chài, đêm buồn dịu lặng, ray rức:
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Câu ba, thơ sực tỉnh, như dừng lại, ngoài trăng, sương, sông, nước, còn ngôi chùa ẩn hiện trong đêm:
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự,
Câu cuối, thơ ngỡ ngàng trước tiếng chuông chùa ngân vang trong lòng đêm yên lặng, giửa đêm tịch mịch, sương như lung lay, nước như gờn gợn, khách trong thuyền xao xuyến cả tâm hồn:
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Đã có nhiều tác giả dịch bài thơ
Phong Kiều dạ bạc sang tiếng Việt. Bản dịch tiếng Việt qua thể lục bát, theo tác giả Trần Trọng San, bản này của thi sĩ Tản Đà (5), nhưng tác giả Nguyễn Quảng Tuân đã đính chánh, bản dịch đúng ra là của thi sĩ Nguyễn Hàm Ninh, nhưng không thấy dẫn chứng.
Theo Trần Trọng San, bản dịch của Tản Đà như thế này: (6)
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Bản dịch, theo Nguyễn Quảng Tuân là của Nguyễn Hàm Ninh (7), có vài điểm không giống hẳn như bản trên:
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Tôi ghi cả hai bản dịch ra đây để tiện đối chiếu.
Ngoài các bản dịch bài
Phong Kiều dạ bạc ra tiếng Việt mà tác giả Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn trong tạp chí
Văn học số 191, tháng 03 năm 2002, tôi xin bổ túc hai bài dịch ở thể thất ngôn tứ tuyệt của hai tác giả Trần Trọng San và Nguyễn Hà.
Bản dịch ra chữ Việt của tác giả Trần Trọng San:
Ban đêm thuyền đậu bến Phong Kiều (8)
Trăng tà, tiếng quạ vẳng sương rơi,
Sầu đượm hàng phong, giấc lửa chài.
Ngoài luỹ Cô Tô, chùa vắng vẻ,
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.
Bản dịch của Trần Trọng San, cùng thể, vừa giữ được ý thơ lãng mạn lại vừa giữ được nét cứng cỏi của thất ngôn. Bản dịch, tôi thiết nghĩ đáp được hai yêu cầu của tác giả Nguyễn Quảng Tuân, thứ nhất là Cô Tô là thành luỹ chứ không phải bến và thứ hai là tính chủ động của tiếng chuông chùa ở câu bốn.
Cô Tô vốn là tên ngọn núi ở phía tây nam Ngô huyện, thuộc tỉnh Giang Tô. Chính ở đây, xưa vào thời Đông Chu (770 đến 314 trước Công nguyên), Ngô vương Phù Sai đã xây đài cho Tây Thi. Vì thế mà tác giả Trần Trọng San dùng chữ “luỹ” ở câu ba trong bài dịch ra tiếng Việt.
Tuy nhiên, trong bài dịch, ở câu một tác giả Trần Trọng San đã đi hơi xa, dịch thoát ý, khỏi chữ “mãn” nghĩa là đầy, và chữ “thiên” nghĩa là trời, khiến cho “trời đầy sương” thành ra “vẳng sương rơi”.
Bản dịch ở thể thất ngôn tứ tuyệt của tác giả Nguyễn Hà:
Đêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều
Tiếng quạ kêu sương, nguyệt cuối trời
Bờ phong sầu hắt lửa thôn chài
Hàn Sơn chuông vẳng Cô Tô lại
Khuya khoắt lay thuyền động giấc ai... (9)
Bản dịch của tác giả Nguyễn Hà không ổn vì:
(1) ở câu một: quá thoát ý,
(2) ở câu hai: lạc ý vì chỉ có ánh lửa chài chứ không có thôn chài,
(3) câu ba và bốn: vừa đảo ý vừa lạc ý vì câu ba xác định vị trí của chùa Hàn San và ở câu bốn tiếng chuông lay khách trên thuyền chứ không lay chiếc thuyền.
Theo tôi, bản dịch ở thể thất ngôn tứ tuyệt hay nhất là bản của tác giả Trần Trọng San.
Còn bài thơ của sư cụ trụ trì và chú tiểu ở chùa Hàn San cũng được sách ghi lại:
Hai câu của sư cụ là:
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung,
Bán tự ngân câu, bán tự cung.
Nghĩa là:
Mồng ba, mồng bốn, mặt trăng mờ mờ,
Nửa như móc bạc, nửa tựa cái cung.
Và hai câu tiếp theo của chú tiểu là:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
Bán trầm thuỷ để, bán phù không.
Nghĩa là:
Một chiếc bình ngọc chia làm hai mảnh,
Nửa chìm đáy nước nửa nổi trên trời.
Tác giả Trần Trọng San có dịch bốn câu thơ trên gồm hai câu của sư cụ và hai câu của chú tiểu:
Mồng ba mồng bốn trăng mờ,
Nửa dường móc bạc, nửa như cung trời.
Một bình ngọc trắng chia hai,
Nửa chìm đáy nước, nửa cài từng không. (10)
Dĩ nhiên, chúng ta không thể so sánh hai câu của sư cụ và hai câu của chú tiểu với bốn câu thơ của Trương Kế được. Một bên là những người bình thường với hồn thơ dào dạt, làm được những câu thơ như thế cũng xứng đáng được tán thưởng lắm rồi. Lẽ nào, chúng ta so sánh bài thơ đó với bốn câu thơ của Trương Kế, là người đã nổi tiếng về tài thơ trong thời Thịnh Đường.
Về sau, vào đời nhà Thanh, học giả Khang Hữu Vi có dựng một tấm bia khắc lại bài thơ
Phong Kiều dạ bạc, để trong chùa Hàn San (11).
Trần Long Hồ
(1) Thơ Đường, Trần Trọng San, cuốn một, trang 114, NXB Bắc Đẩu, in lần thứ ba 1972, lần hai 1966, lần một 1957.
(2) Thơ Đường, sách đã dẫn, trang 114.
(3) Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng, quyển trung, trang 592, NXB Xuân Thu.
(4) Thơ Đường, sách đã dẫn, trang 114.
(5) Tạp chí Văn học, số 191, tháng 03 năm 2002, trang 36.
(6) Thơ Đường, sách đã dẫn, trang 115.
(7) Tạp chí Văn học, số 191, tháng 03 năm 2002, trang 36.
(8) Thơ Đường, sách đã dẫn, trang 116.
(9) Đường thi tứ tuyệt, Nguyễn Hà, NXB Văn Hoá Thông Tin, 1996, trang 209.
(10) Thơ Đường, sách đã dẫn, trang 116.
(11) Đường thi tinh tuyển, Duy Phi, NXB Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội, 2001, trang 247.