水檻遣心其二

蜀天常夜雨,
江檻已朝晴。
葉潤林塘密,
衣幹枕席清。
不堪祗老病,
何得尚浮名。
淺把涓涓酒,
深憑送此生。

 

Thuỷ hạm khiển tâm kỳ 2

Thục thiên thường dạ vũ,
Giang hạm dĩ triêu tình.
Diệp nhuận lâm đường mật,
Y can chẩm tịch thanh.
Bất kham chi lão bệnh,
Hà đắc thượng phù danh?
Thiển bả quyên quyên tửu,
Thâm bằng tống thử sinh.

 

Dịch nghĩa

Trời đất Thục, ban đêm thường có mưa,
Thuyền đã qua buổi chiều tạnh ráo.
Lá bóng loáng đầy nơi rừng bên bờ đê,
Áo khô chiếu gối sạch.
Không chịu được căn bệnh của người già,
Thì làm sao còn mong được cái danh hão!
Tạm lấy chén rượu nhạt,
Nhờ nó dứt hẳn cái đời này đi.


(Năm 761)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Đất Thục thường mưa đêm,
Chiều tạnh, một con thuyền.
Ven đê lá rừng ánh,
Áo khô chiếu gối êm.
Thân già bệnh cam chịu,
Danh hão sao lại thèm.
Tạm đem chén rượu nhạt,
Nhờ nó, đời dễ quên.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Trời Thục ban đêm thường có mưa,
Đã qua chiều tạnh thuyền về bờ.
Đê rừng bóng loáng rơi đầy lá,
Chiếu gối áo khô sạch bụi mờ.
Căn bệnh người già không khứng được,
Làm sao mong được cái danh hờ!
Tạm đem rượu nhạt làm khuây khoả,
Nhờ nó xa rời cái chuyện đời.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Đêm đất Thục thường mưa lênh láng
Hiên bên sông buổi sáng tạnh rồi
Rừng đê lá ướt mọi nơi
Trong nhà chiếu sạch áo thời khô rang
Không chịu nổi bệnh hành kỳ lão
Thì làm sao danh hão mong cầu
Chén nông và nhỏ rượu bầu
Nhờ nhiều vào nó tống mau đời này.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời