Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/03/2015 22:46
午辭空靈岑,
夕得花石戍。
岸疏開辟水,
木雜今古樹。
地蒸南風盛,
春熱西日暮。
四序本平分,
氣候何回互。
茫茫天造間,
理亂豈恒數。
系舟盤藤輪,
策杖古樵路。
罷人不在村,
野圃泉自注。
柴扉雖蕪沒,
農器尚牢固。
山東殘逆氣,
吳楚守王度。
誰能扣君門,
下令減征賦。
Ngọ từ Không Linh sầm,
Tịch đắc Hoa Thạch thú.
Ngạn sơ khai tịch thuỷ,
Mộc tạp kim cổ thụ.
Địa chưng nam phong thịnh,
Xuân nhiệt tây nhật mộ.
Tứ tự bản bình phân,
Khí hậu hà hồi hỗ,
Mang mang thiên tạo gian,
Lý loạn khởi hằng số.
Hệ chu bàn đằng luân,
Sách trượng cổ tiều lộ.
Bãi nhân bất tại thôn,
Dã phố tuyền tự chú,
Sài phi tuy vu một,
Nông khí thượng lao cố.
Sơn Đông tàn nghịch khí,
Ngô Sở thủ vương độ.
Thuỳ năng khấu quân môn,
Hạ lệnh giảm chinh phú.
Trưa từ núi Không Linh đi,
Đến chiều là tới đồn Hoa Thạch.
Bờ hoang lòng sông rộng mở,
Có nhiều loại cây gỗ cũ mới khác nhau.
Đất như nung, gió nồm thổi mạnh,
Mùa xuân nóng bỏng trời phía tây lúc về chiều.
Bốn mùa vốn chia đều,
Tại sao khí hậu lại ngược ngạo như thế.
Bao la là cái khung cảnh thiên nhiên,
Gây loạn phải chăng là lẽ thường?
Cột thuyền nơi bụi dây leo,
Chống gậy lần theo lối người kiếm củi.
Người ở ẩn không có trong xóm,
Bến quê suối cứ chảy.
Cửa sài tuy hoang vắng,
Nhưng công cụ làm ruộng vẫn còn tốt.
Nơi Sơn Đông bầu không khí tàn ngược tan đi,
Vùng Ngô, Sở theo lệ mới vua ban ra.
Ai là người có thể tới gõ cửa nơi cung vua,
Xin nhà vua hạ lệnh giảm tiền đóng nuôi quân đi.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 10/03/2015 22:46
Trưa, núi Không Linh đi,
Chiều đồn Hoa Thạch ghé.
Lòng sông lấn bờ hoang,
Cây cũ, mới chen kẽ.
Đất nung, cơn gió nồm,
Xuân bỏng, trời chiều xế.
Bốn mùa vốn đều nhau,
Khí hậu sao lạ thế.
Cảnh trời thật bao la,
Gây loạn há phải lẽ?
Cột thuyền dưới bụi cây,
Gậy chống đường mòn rẽ.
Người ẩn vắng trong làng,
Suối cứ chảy bến lẻ.
Cửa tre tuy hoang vu,
Nông cụ vẫn còn để.
Sơn Đông bạo khí tràn,
Ngô Sở phải theo lệ.
Có ai gõ cửa vua,
Xin lệnh cho giảm thuế.