題郪縣郭三十二明府茅屋壁

江頭且系船,
為爾獨相憐。
雲散灌壇雨,
春青彭澤田。
頻驚適小國,
一擬問高天。
別後巴東路,
逢人問幾賢。

 

Đề Thê huyện Quách tam thập nhị minh phủ mao ốc bích

Giang đầu thả hệ thuyền,
Vi nhĩ độc tương liên.
Vân tán Quán Đàn vũ,
Xuân thanh Bành Trạch điền.
Tần kinh thích tiểu quốc,
Nhất nghĩ vấn cao thiên.
Biệt hậu Ba Đông lộ,
Phùng nhân vấn kỷ hiền.

 

Dịch nghĩa

Đầu sông vừa cột thuyền xong,
Vì mi là cái độc nhất thương ta.
Mưa làm tan mây nơi Quán Đàn,
Mùa xuân xanh tươi trên cánh đồng Bành Trạch.
Nhiều lần kinh sợ khi đi ngang vùng đất nhỏ,
Cứ định hỏi trời cao.
Sau khi rời, trên con đường xứ Ba Đông,
Gặp người cứ hỏi ai là kẻ hiền.


(Năm 763)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Đầu sông vừa cột thuyền,
Chỉ vì mày gắn bó.
Mưa Quán Đàn, mây tan,
Ruộng Bành Trạch, xuân tỏ.
Vùng thấp thường sợ qua,
Trời cao những muốn ngỏ.
Đường Ba, sau khi rời,
Người hỏi ai hiền đó.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Nơi đầu sông thuyền vừa buộc cột
Vì ông là người rất thương ta
Quán Đàn mưa kéo mây tan
Cánh đồng Bành Trạch cỏ xuân xanh rờn
Lòng kinh sợ đi ngang vùng nhỏ
Cứ định rằng sẻ hỏi trời cao
Ba Đông biệt hậu đi vào
Gặp ai cũng hỏi người nào hiền nhân?

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời