Một hôm bên La-duyệt thành,
Nơi vườn mai trúc đôi cành hoa bay.
A-nan ngồi dưới cội cây,
Trên tòa đá trắng sớm ngày sương vương.
Bỗng đâu gió thoảng trầm hương,
Ngài nhìn đôi bướm cánh hường ngất ngây.
Nghĩ rằng hoa để thơm cây,
Khác gì Phật hiện cõi này trần sa.
Như chiên đàn ngát Ta-bà,
Mây hương giới định cõi xa ngạt ngào.
Mười phương rợp bóng tàn đào,
Chúng sinh nương tựa khác nào cỏ non.
Vượt ba cõi mộng chon von,
Trải mưa chính pháp mãi còn nơi nơi.
Tạng kinh diệu lý trụ đời,
Làm nên suối mạch lũng đồi kết hoa.
Niết-bàn là cõi trần sa,
Chúng sinh hiện tướng Phật-đà hóa thân.
Lòng như mây nổi chuyển vần,
Khiến đôi hàng lệ còn ngần mắt thu.
A-nan dưới cội hoa mưa,
Về nơi nhà cỏ trình thưa Cha hiền.
Giữa rừng suối thoảng chim thiêng,
Như sông ngọc cuộn não phiền cát xuôi.
Dưới hoa pháp hội người người,
9.150.  Trên cây ríu rít chim trời hoan ca.
Áo Phật như thái dương pha,
Như chuông ngọc úp giữa tòa hương bay.
Ngài giơ lên một nhành tay
Như lan bạch ngọc diễn bày pháp thiêng.
A-nan ngồi xuống một bên,
Ngưỡng trông thềm đá tỏ viền trăng cao.
Miệng ngài như nụ nhiệm mầu,
Mày cong cong uốn đôi cầu thanh vân.
A-nan quanh Phật ba lần,
Trật y vai phải dáng ngần đá thơm.
Gối quì bạch Phật Thế tôn:
“Nhân gì phúc báo lưu tồn thiên thu.
Mở khai cửa ngọc Diêm-phù,
Như chiêu dương hiện bên bờ đại dương.
Che tàn ngọc khắp mười phương,
Dựng cờ cứu độ sáu đường chúng sinh.
Hằn trong kiếp kiếp phù trần,
Mỗi đời là một dấu chân đại từ.
Mỗi thân là ngọc chân như,
Mỗi lời là một thần thư diễn bày?”
Phật rằng “tâm chẳng đó đây,
Nghìn xưa cho đến giờ này khác chi.
Mười phương thế giới lưu ly
Sinh ra rồi lại đến kỳ trụ không.
Vẫn là một thể tâm đồng,
Khác chi ảnh nguyệt trên sông sóng dời.
Như Lai thị hiện cõi đời,
Ứng thân giữa khắp cõi trời hóa duyên
Cũng là một lẽ thiêng liêng
Trong đời mê vọng dong thuyền độ tha.
Rồi ngài kể chuyện đời qua,
Trong quốc độ nọ, vua là Phạm Thiên.
Có bốn sông chảy quanh miền,
Dòng thiêng vi diệu hóa duyên độ đời.
Trên sông bọt nước nổi trôi
Tạo thành pháp bảo diệu vời vô ngôn.
Một sông diễn pháp vô thường,
Ghềnh sông nghi ngút khói hường hợp tan.
Khiến cho khắp cõi trần hoàn
Nhìn sông người lại vượt đàn vọng ma.
Hai sông thuyết lẽ không ta,
Bọt sông hóa hiện muôn tòa kim lâu.
Soi mình dưới đáy cát sâu,
Khiến người vắng lặng hận sầu ngã nhân.
Ba sông thuyết bất tịnh thân,
Trên sông cát nổi muôn phần tanh hôi.
Soi mình mặt nước phù trôi
Tự nhiên vượt thoát luân hồi chấp mê.
Bốn sông gió nổi bốn bề,
9.200.  Thổi tan cảm thọ quy về tánh không.
Tâm vua hóa hiện bốn dòng,
Trí vua hóa mặt trời hồng tỏa soi
Khiến cho nghiệp thức người người
Phá tan tập kiến chuyển dời y nương.
Dù nơi làng trúc non sương,
Đâu đâu cũng hiện y hường tàn che.
Kết thành hoa báu diệu kỳ,
Ngọc thêu ẩn hiện muôn vì sao trôi.
Lại thêm khánh bạc bồi hồi,
Bao âm thanh báu lưng trời vi vu
Khiến người sạch oán tan thù
Khiến người phát khởi tâm tu đạo mầu.
Lại thêm mấy núi trân châu,
Hào quang chiếu diệu muôn lầu ảo hoa.
Gió đưa vi vút âm ba
Khiến tâm thanh tịnh hiếu hòa hiếu sinh.
Dân muôn cõi nước hòa bình,
Đâu đâu cũng vẳng giao tình ca vui.
Thánh nhân thị hiện trị người
Gây nên sức sống nơi nơi thuận hòa.
Một hôm mây kết tàn hoa,
Ngàn con chim trắng bay về hót vui.
Xa xa từ phía mặt trời,
Cổ xe mây hiện tỏa ngời hào quang.
Trên xe đặt cánh cung vàng,
Một con ấn ngọc, một tràng bảo châu.
Xe kim luân bảo đến đâu,
Tàn mây nhạc báu nhiệm mầu đạo ca
Khiến cho rừng trổ trăm hoa,
Gió đưa hương đến muôn nhà gieo vui.
Vua ra thềm trước đứng coi,
Xe mây hạ xuống đón mời thánh quân.
Trong xe ngai báu sẵn sàng,
Vua ngồi giữa ánh hào quang sáng lòa.
Tay ngài giương chiếc cung ra,
Lưng mây lại trải mưa hoa cúng dường.
Rõ ràng đức Chuyển luân vương,
Bốn dòng sông hóa, bốn đường vàng châu.
Xe vua chuyển đạo nhiệm mầu,
Bốn đường là bốn nhịp cầu trí bi.
Người qua nghiệp sạch tham si,
Thần thông hóa hiện diệu kỳ lạ thay.
Vua là tiền thân Phật đây,
Thuở xưa trị nước, ngày nay độ đời.
Nghiệp nhân vẫn tại lòng người,
Tự mình kiến tạo lấy nơi trú mình.
Khác gì chiếc kén tươi xinh,
Khác gì trăng rọi bóng hình không hai.
Cũng là tâm thể hiện bày,
9.250.  Cũng là ảo hóa họp vầy duyên sinh.”
A-nan cung kính thưa trình:
“Nhân chi tích tụ thánh luân tụ thành?”
Phật rằng “vô lượng kiếp trần,
Non cao có một thánh nhân ẩn mình.
Làm thơ giáo hóa chúng sinh,
Khiến người thoát khỏi vô minh nghiệp dầy.
Đến ngày thân trả gió mây,
Thành kia mới có người xây tháp thờ.
Khắc lưu pháp kệ thần thơ,
Trầm hoa cúng trải bốn mùa tôn nghinh
Khiến người khai mở trí minh,
Đại từ bi cứu chúng sinh mọi loài.
Phước này thành quả vị lai,
Làm vua trị cõi trần ai bao lần.
Kiếp xưa làm Chuyển thánh luân,
Kiếp này thành Phật muôn phần viên dung.
Cõi truyền vô thủy vô chung,
Hết mê đến ngộ hết cùng đến thông.
Ngại chi kiếp kiếp trần hồng,
Nụ cười tự tại trong vòng trần lao.
Pháp hiền lưu chuyển nghìn sau,
Trong mê vọng hiện nhịp cầu từ quang.
Đó là tám nẻo đường vàng
Đưa người thoát khỏi hầm hang lửa hồng.
Quy về diệu hữu chân không,
Vào ra vô ngại viên thông xá gì.”
Dưới thềm rêu biếc lưu ly,
Khe hoa vẳng tiếng chim gì vọng âm.
Gió xa phảng phất non trầm
Dưới dòng suối giục dây cầm nao nao.
Đôi con chim lạc sông nào,
Phiêu bay trong đám mây đào đầu non.
Thông già đôi ngọn chon von,
Thiên thu biền biệt dấu còn xanh tươi.


Phạm Thiên Thư thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu), Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]