Bia đá được lập nên, là để ghi chép lại sự tích cũ, là để nêu gương công đức lên vậy.

Trộm nghĩ xưa, đền thờ Thiên Thần vương, từ đời Hùng Vương thứ sáu, do Lạc tướng ở bộ Chu Diên phụng mệnh xây dựng đài Kính Thiên theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Hàng năm đầu xuân, kính cẩn tiến hành đại lễ tế trời. Nếu như có thiên tai biến hoạ lũ lụt hạn hán, dân gian cầu đảo, thì rất là linh ứng. Đến đời triều (Lý) trước, năm Thuận Thiên thứ 7 (1016), nhà vua đến thăm viếng cảnh núi sông, phong thần là Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương. Về sau, các vua đều cho tu tạo đền, có sắc phong thần. Lớn lao thay, lồng lộng thay ngôi cao uy linh đệ nhất!

Cúi nay, thánh đế bệ hạ, ngồi ngôi cao nơi chín bệ, thân hành đoan chính, giáo hoá vạn dân. Cầu mưu kế lâu dài cho con cháu muôn đời, truy ân đời trước, để làm rạng rỡ công lớn, ra chiếu ban tiền 300 sâu, đặc mệnh sai tu sửa (đền). Nghiêng mình kính cẩn thấy công việc được hoàn thành, quy trình gồm đủ. Được như vậy thì công đức lớn của muôn vạn năm, có thể được như thế chăng!. Lại thêm (đời chúa thánh) dùng văn đức để dựng công trị bình thịnh vượng; đã tạo đền thần để tỏ lòng thành kính, và lại để nối dài phúc lớn vô cùng cho xã tắc trăm họ, cho tổ tông muôn đời. Vậy biên chép lại việc tích cũ xưa nay, khắc tỏ vào đá để lưu truyền muôn vạn đời.

Kính cẩn chắp tay cúi đầu ghi lời minh rằng:
Lẫm liệt miếu thiêng,
Lẫy lừng nhan thánh.
Nay đến xưa qua,
Hổ ngồi rồng cuộn.
Tinh anh muôn thửa,
Rực sáng hai bên.
Vua khai đức hiếu,
Lễ Quán đáng xem.
Năm tháng lâu dài,
Rêu phong mấy độ.
Kính thay thời mệnh,
Lẽ dựng vừa tròn.
Quy mô đổi mới,
Vóc gấm huy hoàng.
Duy công đức ấy,
Sánh tày núi non.
Thần có linh ứng,
Thế nước vững yên.
Mệnh mạch nối liền,
Chắc như bàn đá.
Cùng mãi đất trời,
Lời Minh không mòn.

Ngày 20 tháng 11 mùa đông năm Nhâm Tý niên hiệu Hưng Long thứ 20 (1312).


PHỤ GHI GIA BAN SẮC TẶNG CỦA CÁC ĐỜI

Ngày 15 tháng 2, xuân năm Thuận Thiên thứ 7 (1016) sắc phong Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương.
Ngày 20 tháng 7, thu năm Đại Định thứ 6 (1145) chiếu ban tiền 115 sâu để tu tạo đền thần.
Ngày 11 tháng 3 năm Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 4 (1189) sắc phong Đại vương và cho lệ quốc tế với Vũ miếu.
Ngày mùng 8 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 2 (1252) chiếu phát tiền 50 sâu để sửa chữa đền thần.
Ngày mùng 6 tháng 2 năm Hưng Long thứ 7 (1299) phụng ban lệnh cho lệ tiền tế xuân hàng năm 30 quan để tỏ ý kính.

Sắc làm Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương rằng: Tinh anh thái nhất, đức đủ âm dương. Trừ tai trục hoạ, đưa chúng dân lên đài xuân cõi thọ, tỏ rõ phúc đức đặt mệnh nước vững yên như bàn đá. Đã nhiều lần có công giúp đỡ, đáng đưa vào điển báo đáp nêu dương. Có công giúp cho hoàng gia được lâu dài, phúc bảo hộ nghiệp vua thịnh trị. Ngầm giúp Quốc vương ta bình định phương nam, tiễu trừ quân trái mệnh; bắt được kẻ nghịch là Chế Chí, thu hoạch được voi ngựa khí giới súng đạn. Thủ thắng vẹn tuyền, vững yên thiên hạ. Thu phục cho non sông nhất thống, rất là linh ứng. Đáng gia phong là Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương, trên bàn cho được dự lệ quốc tế cùng Áp Nha công chúa Lục Phi nương cùng được phối thờ. Vậy sắc.

Ngày 17 tháng 6 năm Hưng Long thứ 20 (1312).
Đặc sai Huệ Vũ vương Trần Quốc Trẩn ban chiếu chỉ.
Hàn Lâm học sĩ Trương Hán Siêu phụng biên chép sự tích.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]