Trang trong tổng số 1 trang (9 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 28/10/2023 13:31
Mấy độ hoàng hoa sứ nước ngoài,
Tuổi cao đức tốt ấy kìa ai?
Bang giao những tưởng ngọc ngà đẹp,
Tiên cốt nào hay gió bụi đầy.
Giọt lệ đồng châu đưa một lễ,
Tấm thân tuổi tác tiếng muôn đời.
Trăng thu mơ tưởng trên hồ nọ,
Thấp thoáng đầu nhà bóng lẩn soi.
Gửi bởi Vanachi ngày 28/10/2023 12:18
Mười mẫu quanh chùa đất rộng thay,
Nhà quan tướng cũ đấy là đây.
Nghĩ vùi cỏ nội nào ai biết,
Rêu lấp hoa tàn nọ kẻ hay.
Bộ Lễ ba triều ngôi chót vót,
Cửa quan hai độ sứ xa khơi.
Công danh phú quý còn đâu nữa,
Hiu hắt hơi may nuốm cỏ dày.
Gửi bởi Vanachi ngày 28/10/2023 10:17
Trấn sở Hải Dương trên Hồng lộ,
Đồn canh vẳng vẳng tiếng chuông pha.
Kinh vua vệ dực đường gần dặm,
Mặt bể quan hà dặm thẳng xa.
Bóng nguyệt xóm Mao trong vắt đứng,
Dịp cầu sông Cẩm thẳm mù qua.
Cánh đồng man mác khi nhàn ngóng,
Nọ cuộc can qua dấu chửa loà.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 10/06/2018 14:51
Tron von ngọc chuốt ngất cao phong,
La liệt như sao núi trập trùng.
Cá muối lời dân nghề sẵn có,
Chiêm mùa thuế ruộng nhẹ như không.
Lô xô lớp sóng sườn non vỗ,
Len lỏi con thuyền kẽm đá thông.
Hơn bốn mươi năm nhuần đức hoá,
Thừa binh nào biết cuộc binh nhung.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 10/06/2018 13:58
Ta yêu gì, yêu núi thôi,
Chẳng xa mây khói, xa cõi đời.
Bừng mắt thấy trời mây sắc biếc,
Ngửng đầu xem đất cỏ hoa tươi.
Xuân về buổi sớm mai chào thoảng,
Gió tát trời đông bách đứng phơi.
Chí cả chẳng sờn vì sấm chớp,
Giữa dòng chiếc lá thử rong chơi.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 10/06/2018 11:30
Làng ta có nhiều thắng cảnh, thuở nhỏ du lãm, vết chân ta đi gần khắp, thường khi tự dưới thuyền bước lên núi này, vỗ cái bia ở sườn núi cạo rêu đi, nhân đọc ra mới biết cái tháp cổ kia dựng ra tự năm Tân Mùi niên hiệu Quảng Hựu thứ bảy (1091), triều nhà Lý. Đến khi lên đến trên đỉnh núi, chỉ thấy ngói tàn đền đổ, bỏ vùi rập ở trong sỏi đá bụi rậm, không ngờ bùi ngùi thở dài: Cớ sao hưng, vong, thành, bại, mới độ hai trăm vài mươi năm nay, mà đã thành ra nơi trầm tích! Hay từ đây mà ma diệt đi chăng? Hay lại có người tu đạo lại chăng? Từ khi có vũ trụ, đã có núi này, những kẻ đăng lâm cùng về đâu hết cả, không biết là bao nhiêu người vậy.
Về sau ta đi khách du bốn phương, làm quan trong triều, bị vị nơi đài tỉnh, thời chốn cựu ẩn ở bên trời chỉ mơ màng chơi trong giấc mộng mà thôi.
Đương khi nhà vua mới lên ngôi, mùa đông năm thứ hai, ta ở kinh đô, có người sơn tăng là Trí Nhu đến bảo ta rằng: Mới dựng lại cái bảo tháp từ tháng Chạp năm Đinh Sửu niên hiệu Khai Hựu (1337), sáu năm nay bây giờ mới xong, xin ông làm cho bài ký, công đức nguy nga, không thể lường được, còn về phần báo ứng cũng lại như thế này: Lúc xem lễ, có nhà sư là Đức Văn mộng thấy hơn nghìn người họp ở trên núi, trong có ba người quý tướng, trạng mạo lạ lùng, bảo rằng: “Lũ chúng ngươi nên biết dựng tháp, rất là danh thắng”. Đến nửa ngày hôm sau, nhà sư Đức Uyên lại mộng thấy ông Trúc lâm Phổ Tuệ tôn giả buộc ấn làm phép trấn yên. Lại nhà sư Đức Tĩnh, Đức Minh trước sau lên xây đường cửa tháp, hòn đá lớn lở xuống, người cùng đá tự trên vài nhận đều ném xuống, người đứng xem kinh hãi tưởng là nát rừ ra cám, đến khi rơi xuống đất, đỡ dậy, không có đau đớn gì cả. Xây tháp thành bốn từng, đêm đốt đèn quang minh, bóng tan ra, xa gần đều trông thấy, phàm những sự ấy đều là sức thần thông của đức Phật ta.
Vả lại Nhu nghe rằng: Xưa kia vua A Dục sai khiến quỷ thần, dựng thành tám vạn bốn nghìn cây tháp, lúc đem lễ như là thân trông thấy Phật. Khắc cái tháp lên đầu gậy cũng trừ được yêu khí, dựng cây tháp qua bể, vụt chốc biến mất, không phải là việc quái đản, xưa nay cũng in như thế, xin khắc vào đá truyền tin về sau, chẳng cũng nên ư?
Ta bảo rằng ông Thích già Lão Tử lấy tam không chứng đạo chân tu, khi diệt rồi, đến lúc đời cuối nhiều người phụng thờ đạo Phật để cổ hoặc chúng sinh, trong thiên hạ ba phần, chùa chiếm ở một phần, bỏ dứt luân thường, hao tổn của báu, ngây ngây mà chơi, ngẩn ngẩn mà theo, mà không hoá làm yêu quỷ gian tà, ấy cũng ít vậy, và còn làm ác nữa sao nên.
Dẫu thế, nhà sư là học trò ông Phổ Tuệ, học được phép Phật Tổ Trúc Lâm, tu thân khổ hạnh, cũng thật đáng khen. Vả lại giơ nắm tay không, thành thủ đoạn lớn, bám rễ mây, chồng nắm đá, đo từ một tấc mà lên đến thước, đến nhận, bước tiến một bước, trùng cao một trùng, cho đến lúc nguy nga độc lập, hình thế ngất lưng trời, thêm vẻ tráng quan cho non nước sánh với tạo vật cũng đồng công, không phải những lũ tăng đạo tầm thường sánh nổi.
Than ôi! Sau này nữa lại vài trăm năm, chớp mắt biến diệt, chỉ thêm nỗi thở dài cho ta, không còn thấy lũ sư Nhu nữa, thì còn chắc gì? Còn như non xanh nước biếc, bóng tháp giữa dòng sông, chiếc thuyền buổi chiều mát, tiêu diêu ở dưới sông, nâng mái bồng lên mà ngạo nghễ, gõ khoang thuyền mà hát thơ “Thương Lãng”; hóng gió mát ông Tử Lăng rủ cần câu cá, thăm ước cũ ông Đào Chu đi chơi năm hồ, cảnh ấy tình kia, chỉ ta với non sông này biết mà thôi.
Năm Quý Mùi, niên hiệu Thiệu Phong thứ ba (1343), mùa hạ, Nhập nội hành khiển, Tả tư thị lang, kiêm Lạng Châu lộ kinh lược sứ Độn tẩu Trương Hán Siêu Thăng Phủ ký.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 09/06/2018 22:25
Duy, năm Đinh Mão, đúng luật Vô Dịch, trời rét, đêm dài, phong khí xờ xạc; hồng nhạn vẩn vơ, cỏ cây lác đác; Đào tử sắp từ bỏ nơi nghịch lữ, trở vê nơi bản trạch. Cố nhân đều xót thương, đêm nay cùng tiễn biệt; bày thức rau ngon, rót chén rượu sạch; đợi khí tắt nghỉ, nghe hơi đã tịch, than ôi thương thay!
Mông mênh khối đất, lộng lẫy bầu trời, sinh ra muôn vật ta được làm người; ta sinh làm người, nghèo kiết cả đời; rá không bầu cạn, áo rách tả tơi; rượu suông nước lã, hát ngao đi cày; cửa cài hẻo lánh, vui ta đêm ngày. Xuân thu thay đổi, chăm việc canh nông, trồng cây đắp nấm, tươi tốt những mong; sách vui thú sẵn, đàn vỗ dịp không; Đông hong bóng nắng, Hè lắm suối trong; cần lao chẳng quản, nhàn rỗi chơi ngông; vui trời yên phận, trăm năm là cùng.
Trăm năm cõi đời, ai cũng ham chơi; sợ không thành nghiệp, bỏ phí đời người; trân trọng tham tiếc, chết còn hỡi ôi! Song ta chẳng thế, khác hẳn mọi người; vinh ta cũng mặc, nhuốc ta chẳng giây; ngất ngưởng xó nhà, thơ rượu tít say. Đã hay vận mệnh, ai chẳng quyến luyến; ta nay thác đi, đành không ân hận; tuổi thọ gần trăm, thân vốn ẩn độn; già rồi chết đi, nào có tham luyến.
Rét nắng thay đổi, chết khác lúc còn; họ hàng thương viếng, bè bạn thăm nom; chôn ra giữa đồng, để yên cái hồn; ta đi yên giấc, cửa mộ tối om; dơ nết xa xỉ, quá đá đem chôn; đỉ thôi kiệm quá, táng trần Vương Tôn. Tôi đã tịch diệt, cõi đời đã xa; chẳng cây chẳng sấm, ngày lụa tháng qua; danh dự chẳng thiết, thiết gì văn ca; kiếp sinh khó thật, kiếp lữ sao mà? Than ôi! Thương thay!
Gửi bởi Vanachi ngày 29/05/2006 09:13
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 28/07/2011 08:27
Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Đi cho biết đây
Đi cho biết đó
Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Đại Thần
Sang bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng
Đủnh đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu
Kìa kìa bên sông, lão phủ người đâu?
Lượng trong bụng ta, chừng có sở cầu
Hoặc gậy chống trước, hoặc thuyền bơi sau.
Vái tạ mà thưa rằng:
Đây là chỗ chiến địa của vua Trần bắt giặc Nguyên,
Và là nơi cố châu của vua Ngô phá quân Lưu đấy.
Đương khi:
Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ
Guơm tuốt sáng loè, cờ bay đỏ khé
Tướng Bắc quân Nam
Đôi bên đối luỹ
Đã nổi gió mà bay mây
Lại kinh thiên mà động địa
Kìa Nam Hán nó mưu sâu
Nọ Hồ Nguyên nó sức khoẻ
Nó bảo rằng:
Phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng cũng dễ.
May thay:
Trời giúp quân ta
Mây tan trận nó
Khác nào như:
Quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa.
Giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ
Ấy cái nhục tầy trời của họ, há những một thời
Mà cái công tái tạo của ta, lưu danh thiên cổ
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang san
Trời đất ra nơi hiểm trở
Người tính lấy cuộc tôn an
Hội nào bằng hội Mạnh Tân như vương sư họ Lã
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ như quốc sĩ họ Hàn
Kìa trận Bạch Đằng này mà đại thắng
Bởi chưng Đại vương coi thế giặc nhàn
Tiếng thơm còn mãi
Bia miệng bao mòn
Nhớ ai sa giọt lệ
Hổ mình với nước non
Rồi vừa đi vừa hát rằng
Sông Đằng một giải dài ghê
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Trời Nam sinh kẻ anh hùng
Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng
Khách lại nối mà hát rằng
Triều ta hai vị thánh nhân
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng binh
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
Gửi bởi Vanachi ngày 06/06/2004 19:40
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 28/07/2011 08:28
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”
Trang trong tổng số 1 trang (9 bài trả lời)
[1]