Phụ nữ Huế thời xưa hò ru con, ru em:
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một như đường mía lau.
Nói về mía lau, có câu “Mía lau vừa ngọt vừa mềm/ Không dao mà tiện không tiền mà mua”. Nếp một - nếp nói chung, theo thư tịch cũ hạt nếp nấu chín có nhựa dính, gọi là “nhu” hay còn gọi là “đồ” dùng để cất rượu, thổi xôi, nấu chè, làm bánh, rang cốm... Đời Minh Mạng đúc 9 cái đỉnh đồng có chạm khắc cây lúa nếp vào cái đỉnh có tên Nhân đỉnh. Sách
Quốc sử quán triều Nguyễn nói về 36 loại nếp. Theo nhà nông, nếp cái (hương cái nhu) là nếp loại một. Thân cây nếp cứng, lá to, hạt trắng tròn, dài, có vằn, tháng mười cấy tháng ba gặt. “Xôi nếp một” không có gì bằng.
Chuối ba hương (hay bà hương) cùng loại với bà lùn nhưng cây nhỏ và thấp hơn. Trong vườn chuối, nếu để ý thì cây này cũng dễ nhận biết. Chuối ba hương thích hợp với đất phù sa biền bãi, trồng đúng vụ theo kinh nghiệm dân gian “tam trúc lục tiêu” cây mau phát triển. Những năm 50 - 60 thế kỷ trước, vườn tược dọc sông Bồ người ta trồng nhiều, nay đi từ đầu đình đến cuối chợ chỉ thấy dăm ba bụi phất phơ trong cái ngút ngàn của màu xanh cây trái ven bờ.
Sách
Vân Đài loại ngữ lại ghi là chuối ba tiêu, ở xứ Giao Châu có nhiều loại trong đó chuối lùn (bà lùn). Từ đó nhân gian suy nghĩ thêm chuối bà lùn cùng ruột thịt với chuối ba hương và tồn tại từ buổi khê động hái lượm xứ Giao Châu.
Ra chợ ghé qua hàng chuối, người mua kẻ bán không mấy ai am tường rành rọt, chỉ lựa nải chuối sai quả, to đều không dấu vết bầm dập thì mua; còn nải nào quả nhỏ lại lấm tấm tàn hương thì chê, tuy giá cả lại thấp hơn. Nên biết rằng cùng “chị em” với bà lùn nhưng ba hương “so bề tài sắc lại là phần hơn”. Hơn về ngon, về ngọt, về thơm và để được lâu ngày không nẫu, không mềm nhũn.
Chuối ba hương tượng trưng cho các bà mẹ già, tóc đã bạc, da đã mồi lấm tấm tàn hương. Chuối ba hương vùng miền nào cũng có nhưng ở Huế nó đi suốt chiều dài lịch sử từ cây chuối ở Giao Châu đến cây chuối ở đất Thuận Hoá. Nó chân chất, mộc mạc, rộng lượng bao dung và với ý chí kiên cường bất khuất để tồn tại vươn lên cho dù phong ba bão táp, phong trần nghiệt ngã như cuộc đời của các bà mẹ. Chuối ba hương không phải sơn hào hải vị chi, mà chỉ “bụi chuối sau hè”, “chuối mọc bờ ao” nhưng được người dân Huế ưa chuộng.
Cô bán chuối ở chợ Vỹ Dạ (Huế), biết chất lượng của chuối ba hương nên đon đả mời mua, ví von theo câu ca dao của cư dân bản địa mà cô đã thuộc lòng từ bao giờ: “Mẹ già như chuối ba hương/ Như xôi nếp một như đường mía lau”.