Bản này trong Lê quý dật sử của Bùi Dương Lịch, thấy có lý hơn bản hiện tại một số câu. Ví dụ như “Tội Hoàng trừ chẳng có...” có lý hơn là “Tội Hoàng Sào chẳng có...”.

Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đấng quân sư,
Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách.
Hội thuận ứng thế đừng được chửa,
Việc chinh tru lòng khá muốn ru.
Đây:
Cấu khí trời Nam,
Vốn dòng dõi họ Nguyễn.
Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn,
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào Man nhòm vạc Hán.
Giận quốc phó ra dòng bội thương,
Nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương.
Trước là ngăn cột đá giữ dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé,
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than.
Ví lòng trời còn nề nếp Phú Xuân,
Ăt dấu cũ lại cơ đồ Hữu Hạ.
Nào biết tộ đời có bảy, giặc họ Trương toan phiến biến mười tuần,
Bỗng xui thế nước nên ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước,
Thế bạng duật đang còn đối mặt,
Thói đường lang sao khéo lắng tai.
Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn ngỡ binh điếu phạt,
Trong cưu chư thừa nguy để dạn, chốn thừa bình nên nỗi lưu li.
Cung đài thành quách phá lâng lâng,
Súng ống thuyền bè thu thảy thảy.
Cơn gấp khúc chẳng thương lòng ngoại tộc, đã cùng rừng đuổi thú thời thôi,
Dấu cưỡi rồng còn nhớ đức tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ?
So chữ bạo, lửa nồng quá Hạng,
Dò lòng người, nước chảy về Lưu,
Chúng điêu tàn mong cờ nghĩa vể đầu, khiến quân số một ngày một thịnh,
Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, nên binh uy càng tháng càng thêm.
Quảng Nam đã quét sạch bụi nhơ,
Thuận Hoá lại đem về bờ cõi.
Nam một giải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần,
Bắc mấy thành chằm nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi xem sao tiện?
Cảm công đức vua Lê dám phụ,
Lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe.
Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lung lao lấy trịch,
Tội Hoàng trừ chẳng có mang lòng riêng thêu dệt vào hình.
Hiệu Đoan vương càng tỏ dạ vô quân,
Mưu thoán vị lại cưu lòng bội phụ.
Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trao bội bạc sao đành?
Điện đô tuy bé mọn nhưng anh, mệnh cha lập tranh khi sao phải?
Tai chẳng đoái tới lời cố mệnh,
Mặt nào trông vào chốn tử cung?
Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất,
Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời!
Ví tôn phù ủng bách chẳng mưu mình,
Thì sắc lệnh ngân tiền sao đãi nó.
Gươm ngược cán trên đem xuống đưới, nghĩa lý nào còn trời đất dung?
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, chính sự ấy xưa nay cũng lạ!
Vì phế lập muốn mình có ích, để khuynh nguy làm nước phải lo,
Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn.
Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối riềng tài cả phải ra,
Chước vạn toàn đà tạc đá Hoành Sơn,
Binh tứ khắc lại trương buồm Bắc Hải.
Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sửa chính dẹp tà,
Vào đất Quan thét ngựa Hán Hoàng quyết chí lấy nhân đổi bạo.
Sắp sửa vốn nguyền lòng thực, vỗ về phải ngỏ lời ngay.
Chữ “hướng minh” phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế,
Máy “trợ thuận” hẳn nhiều kẻ biết, Tần lại dân ngưu tửu nữa ta.
Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng hạ chúng hề tô,
Ta chi phụ dân lành, ắt bồn chữ thu hào vô phạm.
Thói bội bạn chớ quen như trước;
Phúc thái bình đều hưởng về sau.
Nước triều đông ví chẳng thuận lòng, lại cự cưỡng dám giơ tay chắn,
Lửa cháy, đá nhỡ hoà lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.
Ơn với uy ngỏ cáo lời hằng;
Thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.