Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [3] [4] [5] [6] [7] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Phỏng Tử Hậu di tích (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Người bề tôi đày nơi đất trích,
Còn bên hồ dấu tích nghìn năm.
Gặp Hứa Bá thành tri âm,
Chức Trung Lang hại đến thân, ai ngờ!
Cũng chẳng tại văn thơ nên thế,
Tại những ai ghen kẻ công thành.
Nơi nào Tư Mã lưu danh,
Còn vằng vặc tựa trang thanh bên hồ.

Ảnh đại diện

Phi sương (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Chuông vừa gõ báo sáng,
Trời đất bừng trong xanh.
Môt đêm gió hiu hắt,
Nghìn xóm sương long lanh.
Gà rộn quán xe đỗ,
Liễu sẫm đường bên đình.
Đừng sợ đầu thu lạnh,
Lấp loáng ánh bình minh.

Ảnh đại diện

Ngũ Hiểm than (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Trăm khó đường đời, nhón gót qua,
Thuỷ thần cố ý ngạo người ta.
Thác trào trắng sóng tuôn ào ạt,
Đá vốn im lời cũng thét la.
Vội vội phóng chèo không chớp mắt,
Nhanh nhanh xoay lái thấy nghiêng bờ.
Ngồi thuyền ngắm cảnh nghìn thu mạnh,
Đối mặt non xanh, cất chén khà.

Ảnh đại diện

Ngô Chu thắng lãm (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Đất Kiềm đo hội suốt xưa nay,
Buồm lướt in sông, cờ hiệu bày.
Quán khách bờ xuôi, nhà mé nước,
Đường xa mái nhọn lối am mây.
Ba xuân sương khói, rèm thuyền vẽ,
Tám cảnh non sông mưa phố bay.
Tuyệt thú đời người khi cảm hứng,
Chiều về bút mới, tứ thơ hay!

Ảnh đại diện

Kỳ Dương tân thứ kiến nguyệt (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Xa nước ba ngàn dặm,
Vừa mười năm xa nhà.
Sông Tiêu, trăng núi cũ,
Trằn trọc, chiếu soi ta.

Ảnh đại diện

Hồi xa hạng (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Chiến Quốc nhiều kẻ sĩ,
Ta chỉ yêu Tương Như.
Đã dứt chuyện đổi ngọc,
Gõ phẫu chuyện mưu cơ.
Đâu phải vì may mắn,
Bởi trí dũng có thừa.
Nay nhắc tên ngõ cổ,
Còn tên đẹp “Hồi xa”.
Mẫn Trì, khó kê cứu,
Hàm Đan, danh không mờ.
Khi ông còn tại thế,
Phân biệt rõ thân sơ.
Nước địch phải khiếp vía,
Bầu bạn hợp tâm tư.
Nén lòng khi đối xử,
Thói khách khí, loại trừ.
Giao hữu càng thân ái,
Nước Triệu được an cư.
Tần, lang sói, tuy giận,
Cũng không thể thừa cơ.
Một việc truyền nghìn thuở,
Thêm chuyện cũng là dư.
Đời về sau xuống cấp,
Đạo bạn bè phất phơ.
Xe ta qua ngõ ấy,
Vạt áo, gió hương đưa.

Ảnh đại diện

Hoa kiều dạ bộ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Lữ khách sầu xuân đọng,
Trên sông nắng tái hồi.
Sáng, Phần Thuỷ vừa tới,
Chiều, cầu đá nghẽn rồi!
Tản bộ nghe gió vẳng,
Mặt nước tròn sương rơi.
Tiếng người lặng bốn ngả,
Sao Hôm xa góc trời.

Ảnh đại diện

Hành Sơn hạ diểu (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Đêm buồn đứng ngó cao xa,
Một vùng sông nước bao la mịt mùng.
Núi ngang biếc thẫm tầng không,
Ánh sao lấp lánh trên dòng sóng xanh.
Khách du trằn trọc năm canh,
Như con thuyền nổi bập bềnh không neo.
Xa nhìn vách đá cheo leo,
Bao nhiêu mây khói, bấy nhiêu u trầm.

Ảnh đại diện

Giang vũ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Bờ sông tạm neo thuyền,
Nước ngược chảy liên miên.
Tiếng nước reo bên gối,
Màu mưa toả khắp hiên.
Mây múa trên non thẳm,
Gió đàn trong lá chen.
Thấp thoáng nơi cao thấp,
Hoa vẫn lạnh y nguyên.

Ảnh đại diện

Đăng Hoàng Hạc lâu (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Lửa hồng thiêu sạch vết trần ai,
Hoàng Hạc tân trang đẹp với đời.
Ngạc, Sính phòng hoa ưa mắt ngắm,
Đông, Nam hình thế tựa hiên coi.
Người tiên vắng, mây bay nỗi nhớ,
Khách thơ nhàn, rượu nhắp chén vui.
Giang Hán yên, tha hồ ngoạn cảnh,
Không buồn lòng khách “viễn phương lai”.

Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [3] [4] [5] [6] [7] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: