Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bệnh trung khổ vũ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Trên đường đi, hàng tuần ngừng lại,
Chẳng long xe, chẳng phải ngựa đau.
Ngày đi, ngày lại biết đâu!
Bệnh còn dai dẳng, mối sầu triền miên.
Ngóm chim chuẩn vượt trên Huyền Nhạc,
Nghe chim hồng bay lướt Hải Quan.
Dưới sương thắm đoá cúc vàng,
Vẻ thu này sách dung nhan viễn thần.

Ảnh đại diện

Trú phòng lậu thấp hí trình đồng sự nhị hữu (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Phía tây thành quán trơ, mưa dột,
Nước từ trời cứ trút liên miên.
Cam lộ ban tự tay tiên,
Dời giường tạp chất vẫn len theo mình.
Nhìn vào gương, gầy xanh như trước,
Dưới ánh đèn, buồn ruột tha phương.
Phòng ai bên đó ngủ ngon?
Có lê được dép, thả hồn ngâm thơ?

Ảnh đại diện

Trực Lệ trở vũ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Đài Bắc Hải, gió reo vi vút,
Thành Tín Đô, chim hót ríu ran.
Người đi rong ruổi dặm ngàn,
Lại vào phòng núi, bình an toạ thiền.
Sáng, đọc thơ tối liền dốc chén,
Đêm, nghe chuông lọt đến tầng sâu!
Đi chẳng được, về còn lâu!
Hỏi cúc vàng, chẳng nói đâu, chỉ cười.

Ảnh đại diện

Triệu Châu tiên kiều kỳ 4 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Thần tiên khó học lắm thay!
Những ai học được đã bay đi liền.
Cõi tiên thêm một người tiên,
Sao bằng thêm một người hiền nhân gian.

Ảnh đại diện

Triệu Châu tiên kiều kỳ 3 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Không nhiều dấu vết người tiên,
Hàm Đan, tượng ngủ ở miền Triệu Châu.
Quán tiên, thông biếc một màu,
Cầu tiên, bốc suốt ngày thâu, bụi vàng.

Ảnh đại diện

Triệu Châu tiên kiều kỳ 2 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Triệu Yên có lắm vĩ nhân,
Nghìn thu văng vẳng tiếng tăm còn truyền.
Bia ghi sự nghiệp tuổi tên,
Xem ra cũng khó nói lên tỏ tường.

Ảnh đại diện

Triệu Châu tiên kiều kỳ 1 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Sống trong khoảng giữa đất trời,
Phải đâu gỗ đá, con người xưa nay.
Dù không là cánh hồng bay,
Quân thân gánh nặng, thân này phải lo.

Ảnh đại diện

Truỵ dư hý ca (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Con đường Hứa Châu thật khấp khểnh,
Mưa đọng, mấy mươi dặm bùn lầy.
Phu kiệu vai khiêng, bước xiêu vẹo,
Ngẫu nhiên sơ ý trượt chân ngay.
Kìa khóm “trành sở” dáng mềm mại,
Nọ lê và táo trĩu cành cây.
Phu kiệu dìu ta lên chỗ sạch,
Kiếm khăn, tìm nước, mồ hôi đầy.
“Trót ngã, đứng dậy mà đi tiếp,
Đừng sợ, vì ta nên nỗi này”.
Xưa, ai ngã lừa yên thiên hạ,
Ai nhào trên đảo, tiên đến ngay.
Vào hàng đại phu, ta tài kém,
Tích dày, nền mỏng, đáng lo thay!
Luỹ thành sơ hở mới đáng thẹn,
Nào có kể chi đường bùn lầy.

Ảnh đại diện

Xích Bích hoài cổ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Tào Tháo, xe binh đã đổ nhào,
Bóng cây thưa thớt, quạ thôi gào.
Nếu không Xích Bích đau đòn lửa,
Chưa chắc Hoàng Sơ lên bệ cao.
Bãi đá, hoả công còn nóng bỏng,
Dòng sông, tráng khí vẫn tuôn trào.
Còn in chiến tích ba trăm dặm,
Đọc phú Pha ông, cảm dạt dào.

Ảnh đại diện

Tam Tương tạp vịnh kỳ 4 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Sóng cuồn cuộn, Tam Tương vui thật,
Bên đường chiều tấp nập bò dê.
Thấp cao sương toả bốn bề,
Liễu xanh bát ngát phủ che xóm làng.

Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: