Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]
Gửi bởi Kitten84 ngày 01/11/2009 08:51
Đã sửa 8 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 08/11/2009 05:36
Thi sĩ và những điều có thể
Mai Thị Liên Giang
"Có thể" là một trong những bài thơ có nhiều ấn tượng của tác giả Trương Đăng Dung được in trong tạp chí Sông Hương số tháng11, năm 2002. Tác phẩm là cảm xúc về tình yêu và cuộc đời được thể hiện bằng một giọng thơ nhẹ nhàng, kín đáo, nhớ nhung mãnh liệt nhưng lặng lẽ. Với chúng tôi, Có thể còn là một triết lý sống, đồng thời là một chuyện tình cổ tích được diễn đạt bằng tư duy ngôn ngữ hiện đại. Ẩn hiện trong tác phẩm là những khoảng lặng của mỗi người đọc.
Trong hoài niệm trĩu nặng, tác giả đưa người đọc trở về với quá khứ của hai mươi ba ngàn năm:
“Có thể em quên rằng anh đã gặp em
Hai mươi ba ngàn năm về trước
ở một bến sông”
Tín hiệu thời gian từ hai mươi ba ngàn năm về trước đã gợi cho người đọc sự tò mò, muốn khám phá. Thoạt đầu ta có thể cảm giác như đây là một lời tâm sự, nhắc nhủ về một kỷ niệm thường trực, theo suốt cả cuộc đời con người. Đây cũng có thể là lời kể chuyện của những người luôn biết tôn trọng những khoảnh khắc kỷ niệm giản dị mà rất quý giá trong cuộc sống. Thực chất nhiều ý nghĩa của thơ đang dần tìm cách đi ra khỏi một bến sông. Không thời gian đã trở nên vô hạn, vô cùng. Nói chuyện một giờ của đời người đã khó, huống gì ở đây là chuyện của ngàn năm.
Xuyên suốt tác phẩm là một kí ức, một hoài niệm luôn sống với hiện tại. Không có một tháng năm cụ thể của vật lý nhưng người đọc vẫn thấy rõ đó chính là ngày tháng năm rất cụ thể của kỷ niệm. Cái có thể ở đây chính là hai mươi ba, và nó luôn tồn tại bên cạnh cái không thể của con số ngàn năm về trước. Không có một tên gọi về bến sông cụ thể nhưng bến sông của kí ức thời gian vẫn hiện rõ trong lời thơ. Không gian bến sông vừa thực vừa ảo. Thực ra đây là không gian của nỗi hoài niệm khôn nguôi của tác giả về những gì đã qua. Bến sông chỉ là một cái cớ để nhà thơ nói về những trải nghiệm của cá nhân trong cuộc sống.
Quá khứ được soi bằng kí ức thường trực trong anh và có thể cả trong em. Có quá khứ ấy trong em hay không, điều này với tác giả đôi khi không quan trọng nữa. Chỉ cần trong anh, quá khứ đã sống, đã theo anh suốt cả chặng đường đời hai mươi ba ngàn năm. Hai mươi ba ngàn năm, vậy mà hình như chuyện xưa không hề mất đi. Với anh, nó đã và đang tồn tại. Thậm chí anh không cần biết em có thể còn nhớ không? Không cần biết em từ đâu đến và đến từ nơi nào, em đã có một quá khứ và thực tại ra sao. Tác giả không hề có ý định giới thiệu em qua những điều này. Em ở đây là em đã có, đã từng xuất hiện trong anh. Tất cả những chi tiết trong thơ đều gợi nên chân dung của em nhưng thật ra cái hiện hữu trong người đọc không phải là em mà chính là hình ảnh của anh hai mươi ba ngàn năm về trước. Điểm nhìn lùi về quá khứ nhưng là để tạo nên mối liên hệ với con người hiện tại.
“Có thể em đã quên cánh buồm nâu ngày ấy
Trôi giữa trời xanh không biết đến bao giờ
Có thể em đã quên những dấu chân em trên cát
Nơi bình minh tạm trú trước hoàng hôn.
Bến sông, cánh buồm nâu, dấu chân em trên cát, bình minh, hoàng hôn... tất cả là những hình ảnh thân thiết trong kí ức của con người. Nhà thơ đã tìm cái không thể để diễn đạt những cái có thể của đất trời, của vũ trụ, của đời người. Khung trời rộng lớn quá, kỉ niệm của anh và em là con thuyền nâu, trôi... biết đến bao giờ. Làm sao biết được đâu là bến bờ của nó. Trong niềm tin vững bền về những điều anh đã có được, anh... “không biết đến bao giờ”. Kỉ niệm hạn hữu mà không thời gian thì vô định, mọi điều chỉ là có thể. Câu thơ rất lạ: Nơi bình minh tạm trú trước hoàng hôn. Đây là cách nhìn riêng về khoảnh khắc giao hòa độc đáo của vũ trụ. Sức cám dỗ người đọc của câu thơ chính là ở động từ tình thái “tạm trú”. Bình minh, hoàng hôn đó ngày nào chẳng có, đời nào chẳng có mà đâu được xem là ổn định. (Chúng tôi cho rằng, Trương Đăng Dung thường nghĩ về những khoảnh khắc lạ lùng bí ẩn của con người, của thế giới). Trong bài thơ Chân trời (in trên tạp chí Sông Hương số tháng 4 năm 2003), tác giả đã có những phát hiện rất bất ngờ:
Anh đã thấy những người dị dạng,
Dang tay đòi hái mặt trời.
...
Những nhà thơ chống gậy đứng cười
Trước những con trâu mông dính đầy mạng nhện.
(Tạp chí sông Hương số tháng 4 năm 2003)
Có những lúc tác giả băn khoăn với những nỗi đau mà cả nhân loại này phải chịu đựng. Những trăn trở đó cũng được diễn đạt qua cách nhìn về những khoảnh khắc chuyển dịch của vũ trụ. Trong bài thơ “Viết cho con” (1988), tác giả đã viết:
“Bây giờ con ở đây
Khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy
Voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa Đông,
khi hàng triệu con chim bay về xứ nóng
kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu”)
Kỷ niệm tinh khôi như báu vật tinh thần của cuộc đời. Giọt nước qua má, qua môi... để rồi được sống bằng tình yêu con người. Một khoảng thời gian trong những tháng năm chất chứa những khoảnh khắc quý giá của cuộc sống, chất chứa những điều chưa muốn nói. Kỉ niệm thật cụ thể nhưng cũng thật hư vô, mong manh, dễ vỡ. Nếu chỉ cần chạm tay đến nó thật sự thì tất cả sẽ vỡ òa, sẽ chảy tan và sẽ chỉ còn lại anh. Bởi
Anh trở về với bến sông xưa
nhưng
em không nhớ thời gian nước chảy.
mà
anh không biết những ngày thơ bé ấy
Những giọt nước qua má, qua môi
Rơi xuống bàn tay nóng ấm hơi người
Ta soi bóng
Sông vẫn bình yên khúc hát vô tư
Trời vẫn xanh như thế tự bao giờ.
Chân dung tác giả hiện lên ở những câu thơ này thật đáng yêu. Anh rất hiểu đó là kí ức chỉ có được trong anh nhưng anh đã nghĩ: em tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ. Khoảng lặng lẽ trong anh thật quý giá. Đó là sự lặng lẽ của một tâm hồn, của một con người nặng lòng với ký ức, nặng lòng với những duyên nợ nhân gian. Lặng lẽ để chuẩn bị cho những đợt sóng ngầm dữ dội của dòng sông không biết trôi về đâu. Lặng lẽ và kiếp người. Điều này rất quan trọng cho những ai cần phải trải nghiệm cuộc đời hai mươi ba ngàn năm trước và bốn mươi sáu ngàn năm nữa. Mọi sự vật vẫn thế thôi nhưng em và anh đã cùng tồn tại, cùng soi bóng. Em sẽ vẫn là một kỷ niệm bình yên trong anh.
Anh không biết dòng sông trôi về đâu
bốn mươi sáu ngàn năm nữa.
có thể em vẫn nhớ một ô cửa của con tàu
nơi anh đứng,
và bàn tay thấp thoáng vẫy trong đêm.
Có thể em vẫn nhớ những vầng trăng thức trắng
lá rơi thảng thốt trước thềm
Có thể em vẫn nhớ một bóng hình, giọng nói
đã tan trong sương khói
những kiếp người.
Một cấu trúc câu thơ phủ định nữa lại xuất hiện, ở đoạn trên là anh không biết đến bao giờ, không biết những ngày thơ bé, không nhớ thời gian nước chảy, bây giờ lại không biết dòng sông trôi về đâu. Tất cả cái sự không biết, không biết, không nhớ, không biết... trong thơ ấy lại cho thấy tác giả biết quá nhiều, nhớ quá nhiều. Không biết và biết cũng chỉ là có thể. Điều quan trọng là anh đã có nó, anh có em để sống, để trải nghiệm, để làm một một kiếp người. Biết mà nói không biết ấy có phải là tư duy của con người vừa cổ điển vừa rất hiện đại thể hiện trong bài thơ này?. Và cũng chỉ có một cấu trúc câu thơ độc đáo như thế mới diễn tả hết được những suy nghĩ, những triết lý sâu sắc của tác giả qua bài thơ này. Lại bốn sáu ngàn năm nữa. Một thời gian vừa có thể vừa không có thể ùa về mênh mông, thảng thốt, bàng bạc trong những kiếp người quanh ta. Vầng trăng thức trắng hay đó là anh, là anh trong những đêm thao thức, trăn trở về dòng sông, con thuyền, bóng hình, giọng nói và... kiếp người.
Để kết thúc bài viết này, tôi muốn nhắc đến Heidegger. Trong cách nhìn của ông, ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp mà cao hơn thế, nó có khả năng tạo lập đời sống. Nếu Husserl chỉ xem ngôn ngữ là công cụ thứ yếu để thể hiện các ý tưởng đã có sẵn thì Heidegger xem ngôn ngữ là nơi mà đời sống con người diễn ra, là cái đầu tiên tạo ra thế giới. Heidegger cho rằng: cái tồn tại chủ quan của con người được hình thành từ các hình thức tiên thiên của cá nhân con người. Để thoát khỏi lo âu và tìm được ý nghĩa tồn tại, con người cần phải thường xuyên ý thức về cái hữu hạn, về cái chết. Chỉ đối diện với thực chất của kiếp phù sinh của mình, con người mới biết quý trọng các giá trị, tránh được những tham vọng xô đẩy nó vào các hoạt động vô nghĩa (1). Bài thơ Có thể phải chăng có thể hiện điều này.
M.T.L.G
(1) M. Heidegger, Trên đường đến với ngôn ngữ, Trương Đăng Dung dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài số 1, tr - 29.
Nguồn: http://www.haingoaiphiemd...u-c%C3%B3-th%E1%BB%83.php
Gửi bởi Kitten84 ngày 01/11/2009 08:42
Đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 24/12/2009 04:01
Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh
Đỗ Quyên
Quả là một sáng tác thơ đặc sắc đến rùng mình! Đọc bài trên phongdiep.net, tôi cũng bị "ám ảnh" theo người bình, và nhìn thấy nó ánh lên một thứ “thi pháp” khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Ở đâu khác nữa thì không biết chứ ở bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi, hỡi thi sĩ Anh-Ấn Rudyard Kipling!
Chia sẻ với các nhận định khái quát của Trần Anh Thái, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng làm nên bài thơ:
1. Thủ pháp áp đặt:
Bí kíp thi pháp là đây! Dẫu chưa cần biết Hollo Andras (1) là ai - miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v... không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” - nhưng độc giả vẫn nhận được thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Do tựa đề đã có các từ “tưởng tượng”, sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng về sắp xếp nghệ thuật. Chính cái khiên cưỡng đã gợi ra hương vẻ kỳ quái của thơ. Đến lượt mình, chính cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về với đời bình dị.
2. Thủ pháp phi lý:
2.1. Phi lý về thời gian khiến độc giả bị choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”) cho tới câu “tôi với anh...”, rồi “ngày ta sinh...”! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn và khéo!
2.2. Phi lý về không gian địa lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng một loạt hình ảnh phi thực, siêu thực, hay cực thực tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế rồi lý trí lại bị che lấp trong một chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý không gian, hoàn cảnh; Và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi” và “anh”. Nhân vật phụ ấy vụt trở thành VIP của tác phẩm! Tính nhân bản của sáng tạo là chỗ này: Sinh nở gọi sinh nở! Chất trữ tình của bài thơ cũng là đấy! Nếu đọc ẩu sẽ tưởng bài thơ như một chuỗi hồi ức khùng dở và rời rạc, dằn vặt và khô khan...
2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau ... làm đồ nhắm rượu”, “chuột ăn cắp tã vá”, “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”...) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các hiện thực có thật trong đó nhà thơ, bốn mươi năm trước, từng là một chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được thưởng huân chương chiến công của một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót”, cái “ấn tượng đau thương, quằn quại”, nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản, khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm văn chương. Viết về hậu chiến mà đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!
2.4. Phi lý về kết cấu, bài thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một chuỗi các “kỷ niệm" không chỉ “tưởng tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể một câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy. Mở bài và kết bài đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống một chuyện cổ tích thời a-còng!
2.5. Phi lý về cảm hứng chủ đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ Tình và cái Tự Sự; trong đó hai cái sau (Hài, Tự Sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt.
3. Thủ pháp thành phần phụ:
Có thể nói, bài thơ của Trương Đăng Dung đã sử dụng hết mình thủ pháp này; từ tựa đề, tới lời đề tặng và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến chân. Tựa đề, như nói trên, “ăn nhau” là ở các từ “tưởng tượng”. Lời đề tặng “Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật “anh”. Địa điểm, thời gian làm bài thơ“Budapest, 4-1983”, nhất là mốc “1983” dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang mạng tạp chí Sông Hương, thì là các con số“5-1984”; chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu thơ đầu tiên và át chủ, ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054”.) Tức là, bài thơ với“ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy ba-mươi-lăm-dòng-thơ.
Thông thường, các “phụ tùng” của một bài thơ rất dễ bị (và cũng nhiều khi là được), những “mẫu nghi thiên hạ thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí... vứt béng nó đi cho gọn! Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn tác phẩm. (Nói cho ngay, không thể nào coi tựa đề như một thành phần phụ! Ở đây chỉ mang ý khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ.) Nhưng còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc, người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng mới có nhà phê bình để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài“Những kỷ niệm tưởng tượng”, xin được mạnh bút mà rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ. (2)
4. Thủ pháp kết hợp Đông-Tây:
Biểu hiện thi ca qua các yếu tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt nhi đồng “làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”), v.v... mà chí tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo / bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...) của hai khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội dung tư tưởng cho đến cấu trúc, phong cách rồi hình tượng, giai điệu...
Mạnh hơn các thủ pháp khác, thủ pháp xóa nhòa quyết liệt mọi đường biên quốc gia, dân tộc, cá thể trong bài thơ làm nổi lên một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua nhà thơ Nga Konstantin Simonov với "Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai". Phải rồi, đó là của “chúng ta”, bởi vì đã “lớn lên cùng nhau”, “cùng nhau thấy...”, cùng nhau thấy....” và “cùng nhau thấy...”! Chúng ta – đó là Hollo Andras và Trương Đăng Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hương và phongdiep.net, là v.v... và v.v... Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp nhận thơ. Nghệ thuật thi ca phải là vậy!
5. Thủ pháp điểm rơi của bài thơ:
Thiển nghĩ, không chỉ như nhà bình thơ đã nói - “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” - mà ngay bây giờ, những năm 2000, nó vẫn “độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ. Nhưng vì thi ca Việt vẫn đang qua cái thời né tránh hiện thực thô, thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp la lấp lánh từ cái Thực chói chang của bài thơ.
*
Ám ảnh là đức tính chính của một sáng tạo văn nghệ.
Thay cho từng lời cám ơn nhà thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn thơ Hung, Việt Tác Phẩm Mới, Sông Hương và phongdiep.net, mời tất cả chúng ta hãy có lời tổng cám ơn Nàng Thơ – mẫu nghi của cái thiên địa tràn đầy thơ ca này!
Vancouver, 29-9-2009
Đỗ Quyên
Gửi bởi Kitten84 ngày 01/11/2009 08:35
Đã sửa 6 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 08/11/2009 05:38
Một bài thơ ám ảnh
Trần Anh Thái
Khoảng cuối năm 2004, tôi vô tình đọc được bài thơ “ Những kỷ niệm tưởng tượng”, đăng trên tạp chí Sông Hương, tác giả của nó là Trương Đăng Dung. Lúc đó tôi chưa biết Trương Đăng Dung chính là PGS- TS, tác giả của cuốn sách “ Tác phẩm văn học như là quá trình”- Một chuyên luận nổi tiếng, được các học giả trong nước và ngoài nước đánh giá rất cao- Chuyên luận nghiên cứu về phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, dưới ánh sáng của mỹ học tiếp nhận… Nhưng bài thơ dài ba mươi hai câu, ông viết tưởng nhớ một người bạn nước ngoài là nhà thơ người Hunggari Hollo Andras, đã gây nên chấn động mạnh mẽ đến gai người; một ấn tượng đau thương, quằn quại trong sâu thẳm người đọc là tôi. Đọc lại lần nữa, rồi một lần nữa…tôi càng yêu quí và trân trọng sự giản dị mà sâu xa ẩn chứa trong từng câu, từng chữ. Bài thơ không chỉ lôi cuốn tôi bằng một giọng lạ, mới và về một ký ức đau thương, xa xót mà còn vì nó có được một cách sử dụng hình ảnh, cách kiến tạo bài thơ, cách sắp xếp ngữ pháp câu thơ rất riêng, tạo nên một hiệu quả nghệ thuật khác thường. Bài thơ của Trương Đăng Dung được viết từ tháng 4- 1983, tức cách nay đã gần ba mươi năm ( đã in lần đầu trên tạp chí Tác phẩm mới của Hunggari, số 10- 1983). Vào thời điểm ấy, nếu được in ở trong nước, bài thơ của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm. Cảm ơn Trương Đăng Dung đã cho tôi thưởng lãm bài thơ rất hay này.
Nguồn: http://phongdiep.net/defa...ction=article&ID=8037
Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]