Ngã tích vị sinh thời, Minh minh vô sở tri. Thiên công cường sinh ngã, Sinh ngã phục hà vi? Vô y sử ngã hàn, Vô phạn sử ngã cơ. Hoàn nhĩ thiên công ngã, Hoàn ngã vị sinh thời.
Đan xa dục vấn biên, Chúc quốc quá cư duyên. Chinh bồng xuất Hán tái, Quy nhạn nhập Hồ thiên. Đại mạc cô yên trực, Trường hà lạc nhật viên. Tiêu quan phùng hậu kỵ, Đô hộ tại Yến Nhiên.
Vương Duy
* Dịch thơ
1. Ra Biên Ải
Ngồi xe hỏi đường đi Bổn quan ra biên thùy Ải Hán bồng cỏ lụy Trời Hồ cánh nhạn phi Sa mạc bùng khói trắng Chiều tàn rơi sông giăng Tiêu quan…
Xá tây nhu tang diệp khả niêm, Giang bạn tế mạch phúc tiêm tiêm. Nhân sinh kỷ hà xuân dĩ hạ, Bất phóng hương dao như mật điềm.
Đỗ Phủ
* Dịch nghĩa:
Lá dâu non bên phía tây nhà đã có thể hái Lúa đòng đòng ngọn bên sông Đời người thấm thoát vừa mới đón xuân đã sang hạ Nên đừng phí bỏ rượu ngon như mật
Tảm kính dương hoa phô bạch chiên, Điểm khê hà diệp điệp thanh tiền. Duẫn căn trĩ tử vô nhân kiến, Sa thượng phù sồ bàng mẫu miên
Đỗ Phủ
*Dịch nghĩa:
Hoa liễu rơi đầy đường, như phơi bày tấm thảm trắng Lá sen non điểm trên mặt nước, giống những đồng tiền chen nhau (trong thơ cổ, lá sen được ví là đồng tiền) Dưới gốc măng, có chim trĩ trú ẩn, nhưng không ai thấy Trên cát chim non ngủ bên cạnh…
Lãn mạn vô kham bất xuất thôn, Hô nhi tự tại yểm sài môn. Thương đài trọc tửu lâm trung tĩnh, Bích thuỷ xuân phong dã ngoại hôn.
Đỗ Phủ
* Dịch nghĩa:
Chậm lười, nhưng vẫn thích đi ra khỏi làng Dặn con đóng cổng ( Ý nói đi không biết khi nào về, dặn con tối đến cứ cài then cổng gỗ) Trong rửng tĩnh lặng, chỉ có rêu xanh, và rượu nhạt Nước biếc, gió xuân, chiều xuống trên nương đồng.
Trường đoạn xuân giang dục tận đầu, Trượng lê từ bộ lập phương châu. Điên cuồng liễu nhứ tuỳ phong khứ, Khinh bạc đào hoa trục thuỷ lưu.
Đỗ Phủ
* Dịch nghĩa:
Lòng ngậm ngùi đau, nhìn xuân gần hết trên sông Chống gậy bằng cỏ lê, dạo quanh bờ thơm mùi hoa cỏ Nhìn bông liễu điên cuồng cuốn theo chiều gió Ngắm hoa đào man mác trôi xuôi giòng nước