BÊN BẾN MƠ Bên bờ dương liễu rủ hàng tơ Lơ lửng lụa mây dáng ngóng chờ Mỹ nữ nép mình, chừng bẽn lẽn Thi nhân sờ trán, vẻ lơ ngơ Gần xa văng vẳng vài câu hát Đâu đó êm đềm một giọng thơ Mặt sóng lăn tăn tràn bến nước Người ơi, có phải vẫn còn mơ? DNH
BẾN MƠ Liễu ngả nghiêng hồ sóng tóc tơ Hàng bông bụt đỏ cháy mong chờ Người em áo trắng chiều vương vấn Mái phố hoàng hôn nắng ngẩn ngơ Tiếng trẻ đồng dao tràn cuối ngõ Câu hò giã bạn ngập miền thơ Trăng hay người nắm tay cùng bước Cứ hỏi nơi này phải Bến Mơ? Kim Nhung
DUYÊN TIỀN ĐỊNH Bà Phan Thị Viên quê ở huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Cha của bà làm quan Thủ bộ, bị tù oan. Thời gian đó, Tiến sĩ Đinh Nho Công (bố của Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn) khâm mệnh nhà vua làm Giám sát Ngự sử châu Hoan (Nghệ An) đi đốc thị bản hạt, tra xét ngục tù, phát hiện ra ông Thủ bộ họ Phan bị oan, liền ra lệnh tha bổng. Về sau, ông Công được thăng chức Thiêm đô Ngự sử Đô…
Á THẬN PHU NHÂN PHAN THỊ VIÊN Thiếu phu nhân (vợ hai) của Đinh Nho Hoàn là Phan Thị Viên. Nhiều sử, sách đã chép về bà, như "Hoàng Việt nhất thống chí" của Lê Quang Định, "Đại Việt sử ký toàn thư", tập I, Bản kỷ lục biên; "Truyền kỳ tân phả" của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm,...Các tài liệu đều ghi bà Phan Thị Viên là một thiếu nữ có đủ tố chất công, dung, ngôn, hạnh, đoan trang, lễ độ, thêu thùa khâu vá lành nghề, có tài văn thơ nổi tiếng, được vợ cả của Đinh Nho Hoàn yêu quý.…
Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn (1671-1715), tự là Tồn Phát, hiệu là Mặc Trai, là con thứ ba của Tiến sĩ Đinh Nho Công (1637-1695). (Con rể Nguyễn Trọng Thường của Đinh Nho Hoàn cũng đỗ Tiến sĩ, số phận như bố vợ, cũng đi sứ và chết trên đường đi sứ). Ba ông Công, Hoàn và Thường đã được khắc tên trên bia Tiến sĩ trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Năm 1700, Đinh Nho Hoàn thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp); sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Hàn…
MẤY CHỐC TRĂM NĂM Nắng thu nhàn nhạt hắt ngoài hiên Gửi lá vàng bay cả nỗi phiền Hồn thả dòng thơ chiều bảng lảng Khói vờn làn gió mộng triền miên Đã từng cách biệt còn trăn trở Vẫn phải chia lìa đến dại điên Mấy chốc trăm năm thành cát bụi Mơ màng vương vấn chốn thần tiên.
TRĂM NĂM MẤY CHỐC Giọt nhớ thêu mành ngọc trước hiên Vàng thu trải thảm dấu ưu phiền Trời xanh khảm cảnh Lai Hồng Nhạn Nước biếc in bèo tím đất Miên Chẳng thể bên nhau đành dã biệt Cầm bằng cách mặt hết cuồng điên Trăm năm mấy chốc vùi trong đất Cất gánh tơ lòng mộng háo tiên.
NGẪM THƠ Ngước nhìn trời thẳm, lụa mây bay Ngẫm mấy vần thơ đã thấy say Lúa hẳn quên rồi bao kiếp hạn Rượu còn nhắc mãi những đời cay Tâm hồn thanh thản từng giây phút Máu lửa sục sôi suốt tháng ngày Để được thi nhân là chiến sĩ Cho dù áp lực cũng không thay. DNH
LỜI CHÂU NGỌC Mặt nước lồng mây cánh vạc bay Đường thơ sóng sánh ánh trăng say Mùa thu hoạch sớm nghiêng đồng hạn Mắt nhớ chan đầy ngấn rượu cay Họa với hiền nhân và chúng bạn Tìm quên ác mộng giữa ban ngày Từng trang kết nối lời châu ngọc Vắng bóng ai là nhớ lắm thay.