(Tiếp theo) QUYỂN 16
LÊ HIỄN TÔNG HOÀNG ĐẾ ( 1740- 1786)
Lê Duy Niên được nhường ngôi đế
Vì Trịnh Doanh muốn thế Ý Tông
Vời ngay thái tử đông cung
Trở về nhận lảnh trung hưng mối giềng
Dân Đàng Ngoài triền miên thiếu đói (1730,1735,1740)
Ruộng bỏ hoang đồng cỏ xác xơ
Thiên tai, dịch bệnh bấy giờ
Nhiều năm hạn lụt mất trơ mùa màng
Số giáo dân bao gồm cả nước (1737)
Đến bây giờ kiểm được xong xuôi
Hai trăm năm chục ngàn người
Nhà thờ giáo sứ nhiều nơi cát quyền
Cả hai miền đều cho cấm đạo (1737)
Sợ gây mầm khuynh đảo trong dân
Truyền cho giáo sĩ ngoại nhân
Phải ra khỏi nước không cần lệnh vua
Nhà sư tên Dương Hưng khởi nghĩa
Ở Tam Đảo và giữ một vùng
Lại thêm tù trưởng Quách Công
Chiếm vùng Lạc Thổ vẫy vùng một phương
Người nhà Lê thân vương tôn thất
Họp lại cùng Duy Mật hưng binh (1738)
Mong làm đảo ngược tình hình
Tấn công đốt phá kinh thành tan hoang
Mưu bị lộ tìm đường chốn thoát
Vì nghĩa binh khinh thất coi thường
Nên nhiều người đã chết oan
Bị quân họ Trịnh dẹp tan tức thì
Lê Duy Mật chạy về Thanh Hóa (1740)
Cùng nông dân đã hóa vùng này
Thành nơi dựng trại , tuyển nguời
Dân binh gia nhập mỗi ngày một đông
Khi tiến công khi vây Phúc Lộc
Vượt sông Đà đánh thốc sông Thao
Lôi Dương ngấp nghé tiến vào
Ngọc Lâu còn dấu chiến hào thân vương
Thành Trình Quan ba mươi năm ấy
Nét oai hùng còn thấy về sau
Bị quân phản bội bắc cầu
Ong đành tự vẫn tránh vào tay quân (1770)
Ơ Đàng Ngoài nhân dân chống lại
Bọn kiêu binh và lũ tham tàn (1741)
Công Chất cát cứ Sơn Nam (1739)
Tuyển, Cừ, Trác, Oánh chiếm đàng Hải Dương (1741)
Ơ Bắc Phương dư đồ nhà Mạc (1744)
Chiếm Cao Bằng, Hưng Hóa, Tuyên, Quang
Ngân Gia lại có Đình Dung (1740)
Tế Bồng thủ lĩnh chiếm vùng Sơn Tây
Nguyễn Hữu Cầu cho xây dinh trại (1742)
Kiểm soát miền duyên hải Đồ Sơn
Ngũ Phúc tướng Trịnh bị dồn (1744)
Bị quân vây hãm cuống cuồng lo âu
Nguyễn Danh Phương cầm đầu lực lượng (1744)
Mười vạn quân cả tướng và binh
Lấy vùng Thanh Lãng xây thành
Cuối cùng bị bắt tử hình nơi đây
Nguyễn Phúc Chu trên ngai phủ chúa
Ơ Đàng Trong hơn được mười năm
Giữa năm Mậu Ngo (1738) thì băng
Khoát lên nối nghiệp đăng quan lúc này
NGUYỄN PHÚC KHOÁT
(1738- 1756)
Nguyễn Phúc Khoát xuống ngay chiếu chỉ
Lập lễ đài ở Huế đăng quang
Sai người đúc ấn Quốc Vương
Đặt ra triều phục , kỷ cương khi chầu
Xây kinh đô, điền đài, cung điện
Gác Dao Trì nội viện Triều Dương
Thuyền rồng đậu ở sông Hương
Cái quan đắp rộng dể dàng cho dân
Ơ trấn Biên có quân tạo phản (1747)
Chúa Nguyễn sai dẹp loạn thật nhanh
Được tin giặc cỏ Long Xuyên
Vua sai cai đội đem thuyền đi ngay
Lại xuống chiếu chọn ngày đúc súng (1747)
Làm thêm tiền kẽm cứng lưu thông
Cộng chung với cả tiền đồng
Định ra luật lệ tiêu dùng dễ phân
Năm Giáp Tuất (1754) đem quân tiến đánh
Đuổi Chân lạp đến tận Nam Vang
Nặc Nguyên dâng biểu đầu hàng (1755)
Từ nay thần phục xin làm phiên vương
Dưới thời này văn chương kiệt xuất
Nhiều thi thơ trước thuật tài tình
Nguyễn Kiều một thuở lưu danh
Sử Hoa Tùng Vịnh để dành người xem
Chinh phụ ngâm chuyện tình cay đắng
Bảng hán văn của Đặng Trần Côn
Bà Đoàn diễn lại thơ Nôm
Văn chương man mác nỗi buồn phu thê
Là tác phẩm thiên về nghệ thuật
Một áng thơ tuyệt tác bấy giờ
Nghe qua não nuột tựa hồ
Xót xa vạn dặm mờ mờ đau thương
Tượng Thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ