CHUYỆN NHÀ
Sông sâu lắm thác lắm ghềnh
Đời người lắm bước chông chênh khó dò:
Cha tôi nổi tiếng thông nho
Tục ngữ, điển tích một kho trong đầu
Truyện Kiều nhấm nháp từng câu
Tam Quốc đọc cả sách Tàu, sách ta
Tơ tằm nối nghiệp ông cha
Phát canh hai mẫu “lợi ta lợi người”
Cả nhà êm ấm thảnh thơi
Một anh, lại chị sớm rời trần gian
Nỗi đau chưa kịp gắn hàn
Gỉam tô, cái cách gió càn, nước Tây
Bắt cha đấu tố đêm ngày triền miên
Quy tội bóc lột tá điền
Trưng mua như cướp không tiền cấm than!
Nhà thờ, nhà ở sáu gian
Năm gian người ở, một gian ở thờ
Tai bay vạ gió bất ngờ
Cậu, dì, cô, chú …. Ai nhờ được ai ?
Giừơng cao (giường thờ) cắt thấp để “xài”
Tổ tiên thông cảm không “ngài” quở can
Cha lên đến tận non ngàn
Rủ người chăn dắt cả đàn bò thuê ….
Sửa sai may cũng đã về
Nhà cửa trả lại, mọi bề thì không
Được hoà nhập với cộng đồng
Nghề cũ, nghề mới lại gồng mình lền
Nhờ trời ăn ra làm nên
Các con đi học được lên lớp đều
Trong nhà vật dung chi tiêu đủ đầy
Tiếng đàn, tiếng hát lại bay
Đêm ngày cha lại mê say ngâm Kiều
Các con đạt được mục tiêu
Hai vào Trung cấp, một theo lớp mười
Anh cả chống Pháp một thời
Phục viên, dạy học gần nơi quê nhà.
Cô em ở cạnh mẹ cha:
Chồng là bộ đội, vợ là giáo viên
Đời bố mẹ lắm ưu phiền
Qua bao hoạn nạn chưa liền vết đau
Lại di dời vào rừng sâu
Còn đâu bản quán, còn đâu xóm làng
Thóc cao, gạo kém như vàng
Bao người trăn trở phụ phàng coi khinh
Nước Nga cải tổ chính mình
Đông Âu các nước đồng tình noi theo
Việt Nam “cởi trói” thoát nghèo
Làm giàu được trọng, được nêu “điển hình”
Các con vừa mới nhấc mình
Bố mẹ đã vội “về kinh thiên triều”
Sao mẹ nhân đức đủ điều
Mà đời phải chịu quá nhiều đắng cay
Hai lần vĩnh biệt chia tay
Khóc con nước mắt chất đầy nỗi đau
Đánh Tây, đánh Mỹ đánh tàu
Tiễn con ra trận trước sau 4lần
Quy sai hợp tác dời dân
Bào mòn tâm sức nen thân lụi tàn
Nước nhà đang cảnh cơ hàn
Mẹ “đi” còn phải thở than bao điều
Riêng tôi thử thách đã nhiều
Đêm ngày học tập, sớm chiều tăng gia
Vẫn vào cấp hai, cấp ba
Lên thẳng cách cấp đều là trường công
Mười năm tốt nghiệp phổ thông
Sáu tư (1964) thi đỗ Giao thông cầu đường
Ở đi cốt ở địa phương
Vào Nàm thì “yếu”, vào trường thì “xa”
Đẩy xe đắp đập Ba Ra
Kháng chiến chống Mỹ vào “Ba sẵn sàng”
Mở đường chiến lược dọc ngang
Thịnh Thành, Truông Lứng lại sang Truông Bồn
Giừơng nằm phên trải, chân chôn
Khi làm lán ở, khi dồn vào dân
Ngày đêm ngủ thức bất thành
Lắm khi bom rít, lắm lần đạn reo
Khi nghe sột soạt đều đều
Ghẻ ruồi, ghẻ nước là đìêu “phổ thông”
Ai là thanh niên xung phong
Thì phải có ghẻ nếu không nó ngờ
Vẫn đàn, vẫn hát, vẫn thơ
Vẫn thắm tình bạn, vẫn chờ ngày vui
Ba năm nếm trải đủ mùi
Chiến tranh đã sắp đầy lùi ra xa
Bao người khăn gói về nhà
Tôi nhận giấy báo, vội ra tựu trường
Học xong trở lại quê hương
Nhận bằng tốt nghiệp …. Lên đường tòng quân
Đời lính thật lắm gian truân
Tháng ngày tập luyện, hành quân đường dài
Quân nhu, quản lý, sửa sai
Làm gì cũng được “trổ tài” bản thân
“Thoi đưa” năm tháng chuyển vần
Chín năm đối tượng, một lần đảng viên
Hoà bình thống nhất hai miền
Trở về nghề cũ, “chèo thuyền” lượt hai
Khó khăn vất vả kéo dài
Hơn mười năm phải trổ tài đó đây:
Làm thuê, làm thợ, làm thầy
Cháy nhà, bão đổ sao xây được nhà?
May nhờ cơ chế bung ra :
Xe máy, điện thoại, vila đổi đời
Vợ chồng, ông cháu thảnh thơi
Mong con khôn lớn, rạng ngời công danh
Nay đà bằng chị, bằng anh
Hai O Đại học, hai ngành một năm
Cậu e trai cũng học chăm
Thông minh đã tỏ “hai năm rõ mười”
Ba con rồi sẽ nên người
Tưong lai rồi sẽ sáng tươi bội phần
Chẳng còn ngần ngại, phân vân
Nhà mình đã có cử nhân năm người
Ông bà chín súôi ngậm cười
Mừng con, mừng cháu sáng tươi đạo nhà
Vu này đâu chỉ riêng ta
Đừơng dài không lúc chùn chân
Sông sâu lắm thác, lắm ghềnh chẳng lay
Mấy mươi năm đã dạn dày
Đời ta mới có hôm nay đàng hoàng
( Vinh, tháng 7 năm 2009 )
Nguyễn Hữu Xuy.