Chào anh Nguyễn Thế Duyên. TT thấy cái này bên bác Nguyễn Trọng Tạo có vẻ cùng chủ đề nên bê trộm sang đây, hy vọng không làm phiền anh:CÒN AI ĐỌC THƠ TỐ HỮU? Tố Hữu, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Trọng Tạo -Ảnh: Nguyễn Đình Toán
NTT: Tố Hữu mấy chục năm làm quan to được giới bồi bút tâng là “ngọn cờ đầu thơ Việt Nam”. Tuy vây, năm 1985 trong một cuộc giao lưu tại Đại học Quy Nhơn, được hỏi về thơ Tố Hữu, tôi đã trả lời rằng: “Tôi không thích thơ Tố Hữu, có thể vì cơ thể tôi dễ bị dị ứng, giống như cá ngừ ngon, nhưng có người không ăn được”. Trong nhiều cuộc trà dư tửu hậu tôi cũng hay đưa thơ Tố Hữu ra đùa: “Thịt với xương tim óc dính liền” là một câu thơ về tai nạn giao thông; “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt” nghĩa là tay làm thì ít mà mắt lườm nguýt thì nhiều; vân vân… Vừa rồi tôi có nhận được 2 giấy mời đi dự 2 cuộc về thơ Tố Hữu tôi cũng không đến vì ngại dễ gây sự không đồng thuận. Nay anh Lại Nguyên Ân gửi đến bài viết này, tôi thấy khá tâm đắc và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
VÀI Ý NGHĨ NHÂN HỘI THẢO VỀ TỐ HỮULẠI NGUYÊN ÂN
1/ Kỷ niệm Tố Hữu (TH) năm nay, nhân 90 năm sinh, được tổ chức khá rùm beng: đã một buổi trình diễn thơ-nhạc tại Nhà hát Lớn hôm chủ nhật 2/10, lại buổi hội thảo tại ban Tuyên huấn TƯ hôm 4/10. Làm lớn nhân năm chẵn, lại nhân lễ ngàn năm Thăng Long, rõ rồi; nhưng liệu có phải vì cái uy của thơ TH đang suy trong công chúng? Nghe đôi nhà giáo đại học cho biết, sinh viên ngữ văn không thích làm luận văn, luận án về thơ TH. Không tin thì ban Tuyên huấn cho cán bộ nhân viên làm điều tra xem?
2/ Đọc lại tài liệu giới phê bình nghiên cứu VN viết về TH, nhất là những gì viết từ 1955 đến 2000, bạn phải lưu ý… “trừ bì”, tức là phải lượng định mức độ phóng đại của những lời khen. Một đôi người chỉ khen cho phải phép trước kẻ đắc thời đắc thế, nhưng nhiều người thì khen thơ TH là khen cấp trên, đề lên tận lưng trời, là để kiếm lợi riêng, như cái tay phụ trách tạp chí của Viện nọ dám viết rằng TH làm chức càng cao thì thơ càng hay! (trong khi Xuân Sách nhận xét đúng hơn: nhà càng lộng gió thơ càng nhạt!). Thơ TH đã từng đem lại tiền bạc, học hàm học vị cho không ít nhà giáo, nhà nghiên cứu, – điều này có thật, nhưng “chất lượng khoa học” của sự phê bình nghiên cứu trước đây về thơ TH thì nay cần phải trở thành một đối tượng nghiên cứu khảo sát, đừng có mặc nhiên trích dẫn vô tư.
3/ Giá trị thực sự của thơ TH ra sao? Có sống sót được với thời gian không? – là những điều người ta nên nghĩ tiếp.
Tôi cho rằng thơ TH có thể có tình giai cấp, tình dân tộc, nhưng không có tình nhân loại.
Không có tình nhân loại là ý thức, là chủ ý của nhà thơ TH, người đã ra lệnh cho toàn giới lý luận và sáng tác văn nghệ ở miền Bắc phải loại bỏ tình nhân loại, bác bỏ chủ nghiã nhân đạo (humanisme) cả về lý luận lẫn thực tiễn, bảo nó là “nhân loại chung chung, nhân tính trừu tượng”, mang tính tư sản, cấm không ai được rơi vào quan niệm đó, nếu không muốn bị trừng phạt! Tự ông nói thơ ông là “đồng ý, đồng tình, đồng chí”, nghĩa là những ai không là “đồng chí” với ông thì không thể được ông thích, những ai không “đồng tình, đồng ý” với ông thì đều bị loại ra khỏi thế giới thơ ông. Bị nhà thơ thường dân ghét thì cũng chẳng sao, nhưng bị nhà thơ quyền uy đầy mình như TH ghét thì kẻ bị ghét sẽ khốn nạn từ thân xác đến tận tâm thần, như những cựu “đồng chí” Nhân văn-Giai phẩm đó!
Những nhận định cũ về tình giai cấp, tình dân tộc ở thơ TH cần được minh định lại. Tình dân tộc ở thơ ông chỉ có trong sự phụ thuộc tình giai cấp; ông thạo các điệu thơ Việt cũ, như câu lục bát, câu song thất, lời diễn ca; nhưng ông lại bắt những gì dân tộc tính phải mang màu thời đại, lại là cái màu như ý ông, tức là phải gần gụi công nông binh, – ông chỉ thừa nhận là có tính dân tộc những gì gần gũi với các tầng lớp bình dân hoặc dưới đáy; ông là một học trò tiểu tư sản sinh ra ở đất “thần kinh” Huế nhưng lại ghét tất thảy những gì mang chất trí thức, bác học; ông là người hoạt động chính trị mạnh mẽ, nhiều đam mê và cơ mưu, nhưng thơ ông lại cổ vũ một thứ chủ nghĩa cấm dục hà khắc, may lắm cũng chỉ có một chút xíu tình yêu platonic, “trái tim chia ba phần…, dành cho Đảng phần nhiều”… Tình giai cấp ở thơ ông tựu trung là tìm sự cảm thông trong những tầng lớp dưới, bị thống trị, kêu gọi họ hợp sức lật đổ giai cấp giàu có đang thống trị và giao cái quyền lực vừa giành được ấy cho ông và các đồng chí của ông, rồi từ đấy hãy cúc cung lao động chiến đấu dưới sự dẫn dắt không thể lầm lẫn của bọn ông! Thế thôi. Tức là nó mang đầy sự thực dụng, sự tuyên truyền. TH hiển nhiên là nhà thơ của Đảng mình, nhưng vị tất đã là nhà thơ của dân tộc mình.
Ảnh hưởng thơ TH ở VN (nói chính xác là ở vùng thuộc VNDCCH và CHXHCNVN) là lớn, nhờ việc bộ máy tuyên truyền do ông đứng đầu, đưa thơ ấy tràn ngập các kênh chủ yếu: sách giáo khoa, sách báo phổ thông, đài phát thanh… Nói cho đúng, công chúng sống trên đất VNDCCH và CHXHCNVN biết và thuộc thơ TH là vì không thể tránh thoát thơ ấy, là vì không có chỗ trốn khỏi thơ ấy. Tất nhiên thơ ấy chiếm lĩnh tâm hồn rất nhiều lớp người, và chính vì thế mà họ đã làm những gì thơ ấy kêu gọi, nhất là… ra trận!
Thơ TH có những vết nhơ không thể tẩy xóa, như đoạn thơ “Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi “Sta-lin” ! Ý thơ ấy, ngay tầm gần, đã trái hẳn lẽ thường nhân loại: trẻ con tập nói thì gọi “mẹ” chứ đâu đã biết ai xa lạ? trẻ Việt làm sao tập nói được cái từ đa tiết xịt xoạt như thế kia? (Bài đăng tạp chí Văn nghệ 1953 là Tiếng đầu lòng nó gọi ‘Ông Lin’ , bản in vào sách Việt Bắc 1955 sửa thành Tiếng đầu lòng con gọi ‘Stalin’). Lại nữa, người đàn bà Việt dân quê làm sao có thể “Thương cha thương mẹ thương chồng / Thương mình thương một, thương Ông (Stalin) thương mười” (!?!). Đây quả là một quái tượng trong thơ ca tiếng Việt và thơ ca thế giới, khi nhà thơ (thường được xem là kẻ chỉ biểu dương những gì nhân ái, lương thiện) lại ngợi ca “công đức” một Bạo chúa, một Hung thần, một Độc tài khét tiếng, một Đao phủ thủ vĩ đại, và để làm cái việc ngợi ca trái lẽ ấy, người làm thơ đã hoàn toàn xé bỏ những giới hạn thông thường của tình cảm nhân loại.
Trên mạng internet bây giờ đôi khi còn thấy người ta cho rằng TH là tác giả đoạn thơ khủng khiếp này:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.
Tôi thấy lạ với đoạn thơ này, vì dường như chưa từng gặp nó trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc. Vậy nhân đây đề xuất với giới nghiên cứu, nhất là các giáo sư đã từng “ăn lộc” nhiều ở thơ TH (như Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử…), hãy tìm ra ngọn nguồn đoạn thơ này và thông tin lại cho bạn đọc; nếu nó không phải là thuộc ngòi bút TH thì cũng là may cho ông, tuy vẫn thật buồn cho giới làm thơ của chúng ta. Lọt sàng xuống nia, nó vẫn là của một ngòi bút Việt Nam nào đó. Vượt ra ngoài chuyện xác định “tác quyền” cụ thể, đoạn thơ này thông báo rằng còn có cả một dòng thơ ca quần chúng sắt máu đầy hận thù giai cấp từng được Đảng khơi lên, từng được sáng tác ra và lưu truyền trong dân chúng, – đó là “văn thơ (có cả kịch, chèo) phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất”, xuất hiện từ khoảng 1951 và tự tắt đi vào cuối 1956. Rất nhiều tên tuổi nhà thơ nhà văn quen thuộc có góp tác phẩm vào mảng văn thơ này, kể cả Nguyễn Tuân, kể cả Nguyễn Bính, kể cả Hữu Loan…, tất nhiên số đông hơn vẫn là những tác giả quần chúng ít tên tuổi. Cho đến nay, về cải cách ruộng đất thì ít nhiều đã có những công trình, luận án sử học, nhưng mảng văn thơ cải cách ruộng đất thì vẫn chưa hề có một sưu tập, tuyển tập tác phẩm, cũng chưa có một công trình nghiên cứu, luận án hay luận văn nào đề cập tới. Cố tình hay vô ý của giới nghiên cứu văn học chính ngạch ta đây? Hãy chờ nghe trả lời từ những người đang phụ trách các cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội của nhà nước. Nhưng dù sao thì cũng đừng nghĩ rằng hễ giới nghiên cứu làm bộ quên thì mảng văn thơ này sẽ dần dần biến mất; tốt hơn là nên tiếp cận bằng các sưu tập và công trình nghiên cứu, tức là nhắc lại nó như một kinh nghiệm đau xót của một nền văn học từng sa vào những giọng điệu và tinh thần phi nhân đáng hổ thẹn ấy.
(Xin đọc tiếp ở phần dưới}
Giá mà đừng lạc lá thư
Tôi đừng vụng dại, vần thơ đừng buồn