Thời hái lượm, người ta có rượu từ trái chín rụng lên
men và làm rượu từ nước quả ép; thời trồng trọt thì lấy ngũ cốc làm rượu, chưng
cất bột lương thực, nguyên liệu có đường - vị và mùi rượu do nguyên liệu, men.
Cư dân sông Nin biết làm bia trên 6000 năm. Chiến quốc sách ghi chuyện Nghi
Địch (vợ vua Hạ
Vũ) làm rượu; người Việt đã dùng rượu từ 5000 năm trước.
Các nhà hoá học chia rượu làm 2 loại, rượu lên men từ nước ép quả chín (rượu
vang, rượu cần) và rượu cất (spirits) từ đường (bột ngũ cốc, nước mía, nước củ
cải đường, rỉ đường...), thu rượu qua tháp chưng (Bông Lúa, Nàng Hương, đế...).
Rượu mùi pha từ cồn, đường, acide chanh, các chất tạo mùi, tạo màu. Nhà võ cũng
chia rượu làm 2 loại: uống và xoa (ngâm các thuốc để xoa - thường có vài chất
có hại cho đường ruột).
Có rượu ngự (dọn cho vua), rượu tiến (dâng tặng vua), tẩy trần (bụi). Về tình
thái có rượu thưởng - phạt, rượu nhơn ngãi, giao ước, hẹn thế, chia ly, tái
ngộ...Theo nguyên liệu thì có ró rượu đỗ, rượu sắn, ngô, nếp, gạo, mật mía;
theo nồng độ rượu có rượu đầu (lượt rượu đầu nồi, thường cao độ), rượu bào
(rượu cuối, thực chất là nước cất, vị nhạt, thường hoà với đợt rượu cao độ),
rượu tăm (trong vắt, độ rượu rất cao - có người nói tên “tăm” là nếu lấy cây
tăm chấm rượu mút cũng...xỉn); theo mùi có rượu bén (rượu khê) do đun già lửa
(bén nồi) - dân sành rượu ưa dùng; có hồng đào, cúc vàng (hoàng hoa tửu)...Chứa
rượu có bầu, be, nậm, hủ, vò, chai...; uống thì có uống bằng chén, bát, ly, vò,
ống, cần, uống bằng...mũi hoặc nốc trực tiếp từ “vật chứa”. Cách uống thì có
bợp, tợp, hớp, mút, hút, hít, chíp...rượu; uống đứng, ngồi, nằm. Không mồi là
uống sếch, chay; có thể hâm (ấm), ướp (mùi, lạnh, mát).
Uống rượu vang phải ướp lạnh ly, khi uống không ực ngay mà phải ngắm, lắc,
ngửi, ngậm, nuốt và...khà (tới 6 công đoạn - như lục lễ trong hôn nhân thời
xưa). Ăn lối Tây thường kèm nhiều loại rượu, có kiểu ly riêng theo loại thức ăn
và công đoạn của bữa ăn. Việt Nam có rượu làng Vân (Bắc Ninh), Nguyên Xá (Thái
Bình), Trương Xá (Hưng Yên), Nga My (Hà Tây), Quảng Xá (Thanh Hoá), Bắc Hà (Lào
Cai), Kim Long (Quảng Trị), làng Chuồng (Huế), Đá Bạc (Thừa Thiên), Bàu đá
(Bình Định), Gò Đen (Long An); rượu cần (Pleiku), nếp cẩm (Hải Phòng), rượu ngô
(Bắc Thái), cuốc lủi,...
Về mồi thì có thể thấy là có vô số mồi (“vô số” hiểu là: không...có số mà đếm
hoặc "không có gì cả"); bởi mồi có thể là...bia - cho ngón vào ly
bia, mút “choách” một phát và chiêu hớp rượu, hết bia thì nướng nắp chai ngâm
rượu làm mồi (liếm nắp một phát rồi...dzô), không bia thì dùng đinh thép nướng
lên dầm nước mắm. Ở rừng có thể rút dao quắm, rựa, mác, mã tấu...làm mồi (liếm
lưỡi dao để lấy mùi tanh) và “làm ly”. Có loại mồi chua (khế, mơ, sấu...), chát
(ổi, chuối xanh - như Chí Phèo xài khi không bắt vạ được ai), cay (ớt, gừng),
đắng (đu đủ non), mặn - hoặc ghép chúng lại, nêm chút gì đấy là thành mồi. Nếu
thật chẳng có gì thì dùng mồi “e lơ mơ” (e: em; lơ: làm; mơ: mồi - “em làm
mồi”, là ngắm em nào đấy rồi làm hớp rượu). Nếu không có gì để ngắm mà cũng
chẳng còn rượu thì sao ? Hãy theo lối “ca” (ca là...“k”, viết tắt của “khô” tức
là “không ướt”, không có “nước”= không rượu; “k” cũng là “không” tức là không
có mồi và rượu thật, chỉ xài bằng tưởng tượng (tưởng tượng rượu, tưởng tượng
mồi và mọi phụ kiện kèm theo).
Thói thường “trà tam tửu tứ” - cùng uống mới vui, ấy thế vẫn có vị không “bạn
hiền”, cứ “chíp khà” một mình trong cô tịch - cánh độc ẩm ấy quả là rất đáng
quan tâm.
Truyện Lục Mạch thần kiếm (Kim Dung) tả Tiêu Phong ngồi tại quán nghèo nơi biên
tái, không giọt rượu, nghe A Châu tâm sự “đại ca ơi, tiểu nữ nguyện suốt đời
theo đại ca về Nhạn môn quan săn chồn đuổi thỏ, sống cuộc đời khoát lạc ung
dung” thì ông thật sự cao hứng; Tiêu Phong nâng cái chén không rượu lên, ông
ngửa cổ thưởng thức chén rượu tình nồng. Kẻ viết bài được ngắm (lén) một tửu sĩ
độc ẩm kiểu “khô”, đến say, ngài tấu lên khúc tuý ca bi tráng; say quá, tửu
hiệp đã tuý ngoạ ra thềm, hấp háy nhìn loài người về trước hiên đời dưới bóng
chiều nhập nhoạng. Ngắm bức tranh sống động ấy, kẻ nhìn đã xấu hỗ vì ý nghĩ
“Bác ấy say giả hay thật nhỉ ?” -
Ôi ! Quả là tư duy thấp kém của hàng sâu róm, tò vò.
Thế gian chia tửu đồ ra nhiều bậc: sâu rượu, bén rượu, bợm rượu, già rượu, non
rượu, nát rượu, nhát rượu, rét rượu.... Tiếp viên gọi dân uống là tửu khách, vợ
con lại chia các vị thành nhiều hạng (tửu tiên, tửu quỷ, tửu điếc - chẳng chịu
nghe ai). Tuý ngoạ là say nằm, nhậu nằm, nằm nhậu; bài ca cho dân xỉn hát là
tuý ca - bài ca về rượu của “tuý khách”; tuý quyền là dạng quyền phổ bậc cao ở
võ thuật Trung Quốc (với tuý kiếm, tuý phiến - quạt). Tuý dân cõi nhậu phương
Đông tự nhận là tín đồ của tửu đạo và phong Lưu Linh là giáo chủ.
Lưu Linh tên chữ là Bá Luân (210 - 270) sống từ cuối Ngụy (Tào Tháo) đến đầu
đời Tấn (Tư Mã Ý) - thời nhiều chuyện buồn nên người tốt ít vui. Nhóm Trúc lâm
thất hiền nổi tiếng văn chương (Nguyễn Tịch, Nguyễn Hàm, Lưu Linh, Kê Khang,
Sơn Đào, Vương Nhung, Hưởng Tú) được coi là những vị sành điệu; tương truyền
Lưu Linh (và Nguyễn Tịch) uống rượu rất tài. Lưu công thường ngồi uống trên xe
hươu kéo, chở theo những vò rượu lớn - sau xe có người vác cuốc (Lưu Linh dặn
ông say chết ở đâu thì đào chôn ở đấy); trong bài tụng nổi tiếng về những phẩm
chất của người uống rượu (tửu đức tụng), ông gọi các nhà “giảng giải lễ phép”
là “các quan” và coi họ như những “con tò vò, sâu róm”.
....
Cô Kiều của cụ Nguyễn Du đã có vài lần rượu khá đặc biệt: - Lần ba người (Kiều, Thúc Sinh & Hoạn Thư)
Vợ chồng chén tạc chén thù Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi Bắt khoan, bắt nhặt đến lời Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay
- Lần bốn người (Kim Trọng, Thuý Kiều, Thuý Vân & Vương Quan)- Đoàn tụ:
Đủ điều trong khúc ân cần Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng
- Lần đối ẩm giữa Kiều & Kim Trọng
Thêm nến giá, nối hương bình Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan
Theo Cao Bá quát (1809-1853) thì: Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng Về nghĩa có thể hiểu:
(Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon
(Thì) ít người tỉnh mà vô số người say
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mong: Bàn cờ, cuộc rượu, vườn hoa cúc Bó củi,cần câu,chốn nước non
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) cho rằng: Ai say, ai tỉnh, ai thua được Ta mặc ta mà ai mặc ai
Hay:
Còn trời, còn nước, còn non Còn cô bán rượu ta còn say sưa
Nguyễn Khuyến (1835-1909) từng: Trổ tài muốn học ông say Thì ba trăm chén dốc ngay cạn bầu
Trần Huyền Trân (1913-1989) tâm sự với Tản Đà: Cụ hâm rượu nữa đi thôi Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu Rồi lên ta uống với nhau Rót đau lòng ấy, vào đau lòng này
Thâm Tâm (1917-1950) quả quyết: Người đi! Ừ nhỉ, người đi thực Mẹ thà coi như chiếc lá bay Chị thà coi như là hạt bụi Em thà coi như hơi rượu say ......
Xuân Diệu (1916-1985) từng nâng chén men tình:
Anh lại nâng chén nước
Mời em nhắp môi cho
Em ơi, đừng uống hết
Kẻo say chết bây giờ
Ở Thủ Đô với ché rượu cần Tây Nguyên, Vũ Duy Thông viết:
Lấy đâu nước suối rừng sâu
Thì múc nước máy đổ vào ché thôi
Hư thì cũng đã hư rồi
Chẳng hư sao hỏng một đời vì thơ
Hoàng Trung thông hiểu: ...Bạn uống rượu lòng ta không thể chán
Ta thương ta, thương người xa thương thầm
Đỗ Bạch Mai vừa tưng, vừa tỉnh: Em là rượu hay em là nước mắt
Rượu đắng cay và nước mắt mặn mòi
Võ Thanh An tỉ tê: Chén vui, mừng run rẩy
Chén buồn, bước liêu xiêu
Cao Như Dương muốn: ...Ta gom thu hết vào trong rượu
Rót vào quên lãng một bầu cay
Trong rừng đêm, con tầu chở Vũ Hoàng Chương cũng say nốt: Khói tuôn mờ trắng đêm thâu
Men rừng say một con tầu ngả nghiêng
Nguyễn Quang Thiều với vò rượu rắn: Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Người say hát lên bằng nọc độc của mình
Văn Cao thương dân nhậu đang mất dần thời gian sống: ... Uống rỗng những thùng bia
Uống đến hết một ngày đang hết
Uống đến hết một năm sắp hết
Còn liếm môi...
........
Nguyễn Khánh (trưởng phòng GD&ĐT) huyện Tiên Phước- Quảng Nam)hiểu rõ sức quyến rũ của "rượu- thơ", ông nói: "Nếu cuôc sống là gạo đã nấu thành cơm thì thơ là cơm đã cất thành rượu mà người đời ít ra ai cũng một lần say".
Trần Văn Thọ (Hiệu trưởng trường Lê Hồng Phong - Điện Bàn- Quảng Nam) biết:
Không rượu sao mà say chếnh choáng
Không bão giông sao ngồi đứng không yên
Không sương khói sao nhạt nhoà ảo mộng
Giây phút nào ta đối diện cùng em
Lần nọ trong trong chuỗi ngày phỉ lạc cuồng sinh, thi hào Bùi Giáng đã dứt khoát để thượng câm tuyết (hạ quyết tâm) về vụ "điên & say" và Người đã "Không thể nói rằng":
Rồi từ đó anh trở thành quyết liệt
Quyết tâm điên và say đến tận cùng
Vì quyết thể đã từ lâu tận tuyệt
Tới ngao du tuế nguyệt để tao phùng
Sổ nợ của cụ có (sau 27/6/1998) cho thấy: Một ngàn vĩ đại hôm nay
Bởi vì ly rượu tương lai muôn trùng
(Sổ ghi nợ) - viết tay
Văn chương
Trung Quốc có nhiều vụ rượu nhưng các độ nhậu do Kim Dung gầy dựng đáng say hơn; Có lẽ thế mà Mạc Đại tiên sinh, trưởng môn phái Hành Sơn gắn với rượu, ông có "tướng mạo điêu linh cổ quái, lúc nào cũng ba phần tỉnh bảy phần say"
TổThiên Thu (Tiếu Ngạo Giang Hồ) phổ biến kinh nghiệm "Rượu bồ đào uống trong chung dạ quang, rượu trúc điệp thanh phải uống chén dương chi bạch ngọc đời Bắc Tống, rượu trắng uống trong sừng trâu để mùi tanh của sừng át mùi nồng của rượu, bách thảo mỹ tửu được chế từ trăm loài cỏ thơm, uống trong chung bằng trúc để thơm hơn..."
Khi nghe tin Lệnh Hồ Xung bị phạt giam trên Ngọc Nhữ Phong, Điền Bá Quang biết bạn nhớ rượu liền vượt 6000 dặm vào cung vua trộm 2 hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng ; Cho rằng đời chỉ còn Xung với Quang xứng uống rượu này, Điền đại ca tung cước đá vỡ cả ngàn hũ Thiệu Hưng còn lại của vua.
Ở Tụ hiền trang trước trước trận tử sinh với quần hùng, Kiều Phong gọi mấy vò, rót ra mấy bát lớn, mời anh em Cái bang của ông uống đầu tien để nói lời cuối cùng trước khi dứt tình đoạn nghĩa; Rồi ông uống với bạn bè các phái khác, mỗi người một bát đầy... có kẻ bưng bát rượu dứt tình của Kiều Phong mà nước mắt như mưa.
Quận chá Triệu Minh nhớ Vô Kỵ quá (Ỷ Thiên đồ long), cô tìm lên tửu lâu ngồi vào chỗ hai người từng đối ẩm; gọi rượu, thưc nhắm, 2 chén, 2 đôi đũa, 2 chung & rót đầy. Chưa nhắp trọn hớp rượu tình thì cô đã rơi lệ...
Quách Tường (mới 16 tuổi) vì yêu người anh họ là Dương Qua (Thần điêu đại hiệp) mà cô đã vượt cả ngàn dặm đi tìm. Trong hành trang của cô có một vật quí giá nhất- bầu rượu mà Quách Tường mong được cùng Dương Qua đối ẩm. Về sau, mộng không thành, Quách Tường đi tu trở thành sư tổ phái Nga Mi...
Nhìn chung tửu dân nhà Kim Dung thường xỉn khá tử tế dù có nện nhau đôi chút, cãi có ít nhiều; Chỉ một người vì say mà phạm tội đại ác phải ghép vào loại "tửu tặc" - Thành Khôn, sư phụ của Kim Mao Vương Tạ Tốn- say đã làm nhục & giết vợ, con của đồ đệ. Sau đó Thành Khôn vào chùa Thiếu Lâm giả tu với pháp danh Viên Chân; Cuối cùng vẫn bị tìm ra nhưng được tha (hoá ra có xét hành vi phạm tội trong khi... say)
Truyện Lucke (Mỹ), có tù trưởng bộ tộc da đỏ bản địa luôn mơ há mồm dưới vòi rượu của thực dân người da trắng ( thế là tiêu cái bộ lạc ấy); thậm chí có vị khác còn ước ngồi trên chiếc thuyền độc mộc, tay cầm muôi (vá) lớn & xuôi dòng sông... rượu, khi thèm cứ việc thò tay múc một muôi đầy, rồi "trăm phần trăm".
Công dụng của rượu vốn đa dạng, không chỉ là gia vị mà còn là đồ tế lễ ( vô tửu bất thành lễ), hội hè, giao tiếp mang lại (& nâng cao) cảm hứng cho nhiều nghệ nhân như một chất ma tuý (chưa đủ đô thì chưa sáng tác được). Tiếng Hán trong chữ "Y" có tửu, có lẽ người xưa hiểu tác dụng chữa bệnh của rượu & được thể hiện qua chữ tượng hình.
Rượu cay, vị nóng, dùng ít sẽ giúp sức lực cường tráng; Rượu còn hành huyết, khai uất, trừ phong. Nhờ sức dẫn thuốc, người ta ngâm hoặc tẩm thuốc bằng rượu để nâng hiệu lực dược liệu lên các bộ phận nửa trên thân của bệnh nhân. Bản thân rượu còn là vị thuốc, tác dụng của một chút rượu đối với sứckhoẻ là tốt, giúp giải tán thấp khí, khai vị trợ tiêu hoá, ấm ruột & dạ dày, ngừa phong hàn, hết nhức mỏi; rượu xưa để gây mê khi phẫu thuật. Kinh thánh (sách Timôtê I, đoạn 5, câu 23) cũng dạy: "Phải uống một ít rượu để bổ cho tì vị". Người Việt cũng có kinh nghiệm "chén rượu đánh lừa cơn đau" (Thơ "Đất Nước" - Nguyễn Khoa Điềm), theo danh y Lý Thời Trân "Uống ít rượu sẽ điều hoà máu huyết, khí dễ thông, thần tráng kiện, phòng lạnh, gây hưng phấn. Bởi thế:
Nửa đêm ba chung rượu
Sáng sớm vài chén trà
Ngày nào cũng như vậy
Thầy thuốc không vào nhà
Tuy vậy, khi gắn với mục đích & phương tiện rượu sẽ có tác dụng mới; có loại rượu độc (ngâm với gan công, bắt người có tội uống để chết - như Dương Quí Phi). Thông thường rượu dễ làm say; trong rượu thủ phạm gây say là cồn (êtynic), độ cồn là lượng nguyên chất trong 100ml rượu. Ở Califocnia- Mỹ, công dân dưới 21 tuổi chưa được uống loại nước có chứa quá 0,5% độ cồn. Người ta say khi cồn trong máu từ 0,1% đến 0,5%- lượng thừa sẽ tồn tại trong cơ thể dưới dạng aldehyde. Thường khi được hỏi "đã say chưa" thì các tiểu Lưu Linh phán: "3 say chưa chai", rằng đang "khai thông trí hoá" để " đả phá cơn sầu", nào là "mũi chưa chảy đầy râu", chưa đến nỗi "đụng đâu... đái đó" và còn lâu mới "cho chó ăn chè" nhé!
Các nhóm chất độc trong rượu là aldehyd, butanol, metanol, phenol, histamin...gây hại cho gan, thận, não, tuỵ, mắt; ngay khi uống các độc chất trong rượu tấn công vào sinh điểm fluren ở não làm khó giữ thăng bằng, dễ té & còn một số cảm giác như không thấy lạnh- trạng thái "ấm giả", giảm đau- dễ bị thương mà không biết. Sau khi rượu vào, mạch ngoại vi giãn nở & sẽ co lại đột ngột nếu gặp lạnh, sẽ vỡ mạch gây xuất huyết não, ngoài ra còn gây rối loạn tuần hoàn, hạ huyết áp gây nhồi máu cơ tim. Với gan rượu làm cho các chất dự trữ của gan (glycogennaz) sẽ bị huỷ, gan không thải độc được nữa, gan bị nhiễm mỡ, tế bào gan bị thoái hoá, xơ gan.
Với não, tiểu não bị ngộ độc rượu làm rối loạn hành vi, ngôn nữ,; người say trở nên mất nhân tính, Kinh thánh dạy: "đừng say rượu, vì nó sẽ xui cho luông tuồng"- (Êphêsô 5: 18). Thật vậy, người nghiện rượu sẽ bị teo não, thoái hoá não, giảm trí thông minh.
........
Rượu gây viêm niêm mạc dạ dày, viêm ruột, rối loạn trao đổi chất (khó hấp thu muối khoáng, vitamin) teo cơ, giảm sức co bóp của tim, xốp xương.
Thai phụ nghiện rượu thì trẻ sinh ra bị tổn thương - rượu trở tành ma tuý với bé (nếu mẹ không uống rượu thì trẻ sẽ ngủ không yên vì thiếu độ cồn trong sữa mẹ).
Có người uống rượu mà phải đền bia; số là vị này lái xe khi đang say xỉn, bố quẹt mấy nhát vào cái bia mới cứng của ngôi mộ sát "mặt tiền" , thế là vì rượu mà phải đền bia! rất may là ngài chỉ va vào biển số nhà riêng của người âm. Mấy anh xỉn còn lái xe xông thẳng vào nhà người sống để rồi đến nằm chung với người chết đấy thôi.
Có người nhờ rượu mà thêm tiền (cứ say thì nhìn một đồng thành hai hoặc nhiều hơn thế - thơ Trần Vàng Sao), thành con Ngọc Hoàng, làm cậu ông trời..., dễ thương nhất là khi ông say nhìn vợ nhà lại thấy trẻ ra (sợ nhất là nhìn ai cũng tưởng là má bầy trẻ)...
Cái hại của rượu ai cũng biết nhưng tránh nó quả không dễ , thậm chí rượu còn được coi là phương tiện để... phấn đấu, mà đã là phương tiện thì không tách rời khỏi ... lao động(!?). Có sếp tâm (lý) sự với vợ, con trên giường bệnh rằng: "mươi năm nay tao say, nhiều lần say tới bến nay dạ dày hơi bị thủng & gan (ừ thì) có xơ tí ti!, nhưng không say như thế thì làm sao tao được nằm điều trị ở cái phòng dành cho cán bộ cao cấp thế này!?, phải hy sinh sinh đời tao để củng cố đời sau chứ", và cụ hùng hồn phán: "cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn, chúng mày mếu máo làm gì! tao nhậu là vì... sự nghiệp, vì vợ, vì con chứ tao có nhậu cho tao đâu!!!, có khối đứa nhậu chỉ vì tiếp viên đấy thôi! nào mồi, rượu sẵn cả chưa để tao tiếp bác sĩ.. sắp tới giờ tao khám (cho) bác sĩ rồi đấy".
Thật ra lợi hại ở rượu là do cách dùng, đúng cách thì nọc rắn cũng là thuốc chữa bệnh, sai thì nhân sâm hoá ra thuốc độc.
BP (Baden Powell) thủ lĩnh Hướng Đạo Thế Giới (phong trào phi chính phủ đầu tiên nhận giải thưởng về giáo dục của Unesco năm 1981) nói: "Chính ly rượu thứ 3, nếu không phải là ly thứ 2 đã làm tiêu tan điều kiện luyện tập thân thể". Với rượu thuốc hẳn hoi, lạm dụng Minh Mạng thang thì hậu quả cũng như dùng "mất mạng thang"; thầy thuốc triều Minh Mạng căn cứ vào thể chất của vua để lập thang thuốc rượu cho vua, những ai có thể chất & sinh hoạt không như vua Minh Mạng mà thường dùng Minh Mạng thang, tưởng cũng nên nghĩ lại.
Trước đây, để rã rượu người ta gây lợi tiểu, nhưng cách này cũng có chỗ không tốt (aldehyde từ máu vào thận sẽ hại thận); vì vậy nay nên dùng những cách rã rượu dân gian như uống một trong các loại nước như nước rau muống, nước rau má, nước đậu xanh không đường, nước 3 vị: 50g dấm+ 25g đường cát+ 3 lát gừng tươi- đun nóng, uống ấm; hoặc ăn: dưa hấu, khoai lang đỏ, trứng muối, đậu phụ...
Đâu chỉ có loại rượu ai uống nấy say, mà còn có loại người này uống người khác say- rượu "ông uống bà say",; có loại "chưa nhấm đã say" như hồng đào ... có lẽ say đây không phải là say rượu.
Tửu sự còn lắm vấn đề. Giới tửu khách có câu: "Đừng sợ người không say, cũng chớ sợ người không nhậu, chỉ sợ người không nhậu mà say"; lại có câu: "chẳng dám nói không với rượu là hư, nhưng chỉ biết nói không với rượu là hỏng; tất nhiên, chỉ biết nói ừ với rượu là hỏng bét".