Nàng thơ của thành phố bị phong tỏa
Tháng 6 năm 1941, chiến tranh đã chạm tới đất nước Xô Viết.
V.K. Ketlinskaja, nữ văn sĩ đã từng là chủ nhiệm chi nhánh Hội nhà văn ở Leningrad năm 1941 đã hồi tưởng lại: Những ngày đầu chiến tranh bùng nổ, Olga Berggolz, khi ấy mọi người gọi nàng là Olenka đầy âu yếm, đã đến gặp bà trong dáng vẻ của một cô gái còn rất trẻ, trong sáng với đôi mắt đầy tin cậy, “một sự kết hợp giữa vẻ nữ tính yêu kiều với vẻ phóng khoáng hào sảng, giữa cái sắc sảo với sự non nớt ngây thơ trẻ nhỏ” – cô gái lúc này rất xúc động và nghiêm trang. Cô hỏi xem mình có thể đóng góp được gì. Ketlinskaja đã điều cô vào làm việc tại tổ biên tập Văn học sân khấu của Đài phát thanh Leningrad.
Ngày ấy, người Leningrad nhận biết được mình còn sống nhờ những chương trình phát thanh trên sóng radio. Không có nhạc, chỉ có tiếng đì đùng từ phía quân Đức. Chủ yếu người ta thông báo tin chiến sự và … đọc thơ! Chẳng bao lâu sau, giọng nói nhỏ nhẹ nhưng rành rọt và chân tình của Olga Berggoltz đã trở thành giọng nói của một người bạn thân thiết mong đợi trong những ngôi nhà lạnh lẽo và tăm tối của thành Len giữa vòng phong tỏa, giọng nói ấy đã trở thành tiếng nói của chính Leningrad, đã nâng được những con người kiệt sức đứng lên từ hoang tàn đổ nát và cầm cự với giặc trong 900 ngày đêm nóng bỏng, trong nạn đói và cả dịch bệnh ốm đau. Đó là tiếng nói của sự sống vẫn tồn tại mạnh mẽ và dâng trào đâu đó, dưới lớp băng tuyết, trong những cành cây xám, từ bên ngoài, nơi đồng bào họ đang dõi về thành Len. Các bạn văn cùng thời với Olga Berggoltz còn kể cho nhau nghe một giai thoại thế này: Lần ấy, Olga trên đường đi bị vấp ngã vào đống tuyết, đổ ập lên xác một người đã chết cóng. Sợ hãi cùng cực, Olga không đứng dậy nổi, nhà thơ cũng bắt đầu lạnh cứng. Đúng lúc ấy, trên loa phóng thanh vọng ra một giọng nói. Giọng nói đã truyền sức mạnh cho người đang sợ hãi. Olga đứng dậy được và đi. Giọng nói ấy là giọng đọc của chính Olga, đọc một bài thơ mới làm. Chương trình được người ta phát lại!
Chính những ngày tháng khốc liệt này đã đem tới cho Olga hạnh phúc. Nàng lấy lại được niềm tin đã mất, được nhận cả vòng nguyệt quế vinh quang. Trong lao động không ngừng và trải qua thử thách vật chất, Olga được nhận được sự thăng hoa lớn về tinh thần. Nữ sĩ sau này đã nhớ lại thời gian đó: “Lúc ấy tôi hiểu ra rằng thời khắc của mình đã đến, rằng chỉ lúc này tôi có thể dâng hiến cho Tổ Quốc tất cả những gì mình có: lao động miệt mài và những vần thơ”. Nàng viết: “Chưa bao giờ tôi sống hăng say/ Như những ngày mùa Thu năm ấy/ Chưa bao giờ từng trẻ xinh như vậy/ Chưa từng yêu say đắm thế trên đời…”(Trích những ghi chép năm Bốn mốt)*.
Olga viết nhiều và viết nhanh. Từ những lá thư nhận được, từ những thông tin về sự bất khuất của mỗi người dân Leningrad, Olga nhanh chóng chuyển chúng thành thơ để kể với mọi người. Cũng thời kỳ này, hình thành một phong cách sáng tác đặc thù cho Olga Berggoltz – Rất nhiều bài thơ như lá thư “gửi” một người, như cuộc “trò chuyện” với một nhân vật cụ thể, có một số phận cụ thể (Gửi người em gái, Gửi cô gái Leningrad, Trò chuyện với bà hàng xóm…) Thơ để đọc cho muôn người, nhưng lại có sức lay động sâu xa vì được viết như lời tâm tình gan ruột giữa người và người, qua nỗi đau có thật của chính mình. Nỗi đau và mất mát chỉ khiến cho những con người gần gụi nhau hơn về tinh thần, nâng đỡ lẫn nhau, khiến dự cảm về những điều tươi sáng, tốt đẹp vẫn lớn hơn tất cả.
Olga đã chia sẻ đau thương cùng thành Len bằng chính sự mất mát người thân yêu của mình. Đầu năm 1942, khi nạn đói hoành hành đến cực điểm trong thành Len, Nikolai Molchanov, người bạn đời mà bà yêu quý, tôn thờ, hàm ơn… đã qua đời. Olga, từng kiên gan chịu đựng đói, khổ, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần trong những ngày đêm Leningrad bị bao vây, bấy giờ đã “khóc một lần cho cả 900 ngày đêm ấy”. Để đứng vững được, Olga đã miệt mài viết trường ca “Nhật ký tháng Hai”, vẽ nên toàn cảnh thành Len qua chưa đầy một năm chịu đựng. Những tòa nhà đổ nát, những đường ray tàu điện bị đạn cày xới, những đống tuyết xám vun cao… Và những người sống kéo người chết trên những chiếc xe cút kít, băng qua thành phố đến những nghĩa trang buồn bã… Bằng những dòng thơ này, nhà thơ an ủi những người vợ góa của thành Len, trong đó có chính bản thân mình. Olga vẫn trung thành với cách viết không “ồn ĩ lạnh lùng”. Viết như kể chuyện, như tâm tình, giản dị, từ gọi từ, dòng gọi dòng:
“Một ngày bình thường như bao ngày khác
Cô bạn đến gặp tôi, chẳng khóc
Chỉ kể rằng vừa đó hôm qua
Đã tiễn đưa người bạn đời duy nhất đi xa
Và cả đêm hai chúng tôi cùng ngồi im lặng
Còn tìm được lời gì để nói nữa chăng
Bởi tôi cũng là người vợ góa của thành Leningrad
Chúng tôi ăn hết bánh mì dành dụm cho ngày
Ủ hơi nhau trong khăn choàng ấm
Thành Len bỗng lặng đi chiều về chầm chậm
Có người nào gõ nhịp mãi bên tai
Chân đã lạnh đi, ngọn nến mệt nhoài
Quanh quầng sáng đang hắt ra leo lét
vòng nguyệt cầu dịu hiền tha thiết
Từa tựa như một áng cầu vồng
Khi trời hửng lên một chút hừng đông
Chúng tôi cùng đi kiếm bánh mì và nước uống
Bỗng nghe thấy ầm ầm tiếng súng
Đại bác trầm hùng, đều đặn, đớn đau
Là tiếng quân đội ta phá vỡ tuyến đầu
Vòng phong tỏa… Và bắn vào lũ giặc”
(Trích “Nhật ký tháng hai” 2- 1942)*
Về cuộc tấn công chọc thủng vòng vây phong tỏa Leningrad của quân đội Xô Viết, Olga kể trong thư gửi em gái ngày 24 tháng 1 năm 1943:
“Chị cũng là một trong những người phải phát biểu đầu tiên. Chị nhắc lại rằng mặc dù đêm trước bọn chị cũng đã phong thanh biết tin nhưng khi nghe tiếng súng đại bác của ta thì mới hiểu tiếng súng ấy có nghĩa gì – Tin đó khiến chị vẫn bàng hoàng sung sướng. Mọi người bảo chị làm thơ, nhưng chẳng ghép nổi vần vèo gì cả…. Chị đã viết những gì đang kêu gào lên trong lòng này, cùng với những hồi tưởng của chị về anh Kolia (chồng thứ 2 của Olga – ND), chị đã trích hai đoạn từ ‘Nhật ký tháng Hai’ và dường như là ổn. Khi ngồi trước micro, chị run ghê lắm, và rồi bỗng tim đập thình thịch mạnh đến nỗi chị nghĩ nếu chị không đọc hết thì sẽ chết mất. Thật đấy. ..Chị thấy hơi ngại khi viết cho em về điều này nhưng mà đó là sự thực , mà lại là sự thực mà chị không ngờ tới: hôm sau ai cũng nói về lời phát biểu của chị (“cô ấy đã nói ra những gì chúng ta đang nghĩ và nói xúc động như cảm xúc của chúng ta vậy”) – và cho đến tận bây giờ chị vẫn liên tục nhận được thư từ bày tỏ tình cảm đối với bài phát biểu đó bằng cả văn xuôi lẫn thơ. Một số người viết như thế này: Ngay sau khi biết tin chiến thắng, chúng tôi đã chờ được nghe chị nói – và chúng tôi đã không nhầm: chúng tôi đã được nghe giọng nói thân thương quen thuộc vô cùng của chị, và chị đã nói lên cái điều đang cháy bỏng trong tim tất cả chúng tôi.
Em biết không, đồng chí chỉ huy khi chuẩn bị cho cuộc tấn công giải cứu Leningrad, họ phải nổ súng từ rạng sáng và đồng chí ấy thảo lời nói với đồng bào trước khi bắt đầu trận chiến – đó lại là những vần thơ của chị. Ta cũng có thể tự hào về điều đó lắm chứ, phải không em? Chị nghĩ chị không phải là đứa tự kiêu tự mãn dù chị rất tự hào, nhưng chị cũng không biết phải làm gì cho họ - những người lính tuyệt vời đầy tri ân đang bước vào trận chiến với những vần thơ trên môi.”
Đọc lá thư này của Olga, ta hiểu tại sao cái tên bình dị của người con gái Nga này đã từng có trong sổ đen của phát xít Đức – là một trong những người đầu tiên sẽ bị xử bắn nếu chúng chiếm được thành phố.
Sau này, những kỷ niệm gắn liền với những chương trình phát sóng radio thời ấy đều được Olga đưa vào cuốn sách “Tiếng nói Leningrad” của mình “Tôi nói cùng người từ Leningrad – Hỡi Tổ quốc của tôi, Tổ quốc muộn phiền…”. Ngoài ra, Olga còn viết “Trường ca Leningrad”, những vở kịch, kịch bản phim, những trang bút ký về Leningrad đăng tải nhiều kỳ trên tờ “Tin tức” (Izvestia)… Đó là tư liệu vô giá, sống động và chân thực về Leningrad trong vòng phong tỏa.
Olga được tặng thưởng Huân chương Lên nin, Huân chương Lao động cờ đỏ và nhiều huy chương. Song, tấm huân chương rực rỡ và lâu bền nhất mà Định mệnh đã trao tặng cho “Nàng Thơ” lại nằm trong trái tim, khối óc của mỗi người dân Leningrad, những người thuộc và yêu thơ của nàng, nằm trong cả từng tấc đất, phiến đá của thành Len, nơi có dấu ấn nàng để lại. Nếu bạn từng đến thăm thành phố Saint Peterburg, từng đến nghiêng mình trước bức phù điêu có hình người Mẹ - Tổ quốc ở Nghĩa trang Piskarriov, nơi yên nghỉ gần nửa triệu quân dân thành phố Leningrad đã hy sinh trong vòng phong tỏa, hẳn bạn sẽ đọc được những dòng tưởng niệm sau:
Nơi đây yên nghỉ những người con Leningrad
Nơi đây yên nghỉ những người dân thành phố - đàn ông, đàn bà, con trẻ
Bên cạnh họ là những người lính Hồng quân cận vệ
Bằng cả cuộc đời mình Họ bảo vệ Người, hỡi Leningrad,
Cái nôi của Cách mạng
Ta không thể kể hết ra đây tên tuổi Họ vẻ vang
Bởi Họ biết bao người nằm dưới phiến đá kia ngàn đời ôm ấp
Nhưng hãy lắng nghe những tảng đá kể chuyện đời cao thấp:
Không ai bị lãng quên và không điều gì bị quên lãng *
“Không điều gì, không ai bị quên lãng”, vì bằng thơ, Olga đã lưu giữ lại tất cả. Cả niềm tự hào chiến thắng, lẫn những nỗi đau mà nhân dân đã trải qua. Nhà thơ Xô-Viết Evgheni Evtushenko đã hoàn toàn có lý khi viết: “Chiến Thắng mang gương mặt khổ đau cùng cực/ Của Olga Fiodorovna Berggoltz”!
Vẫn còn đó tình yêu, nỗi buồn và những hoang mang
Như đã thấy, Olga Berggoltz không phải là tác gia chuyên viết về tình yêu. Bà là nhà thơ “công dân”, lấy mục đích bám sát hiện thực cuộc sống của đất nước làm cái đích của thơ ca. Thế nhưng, trong tất cả các thi phẩm của bà, kể cả những vần thơ công dân, những bài thơ viết về chiến tranh, những trường ca lấy đề tài là công cuộc xây dựng xã hội của nhân dân Xô- Viết, thì vẫn thấp thoáng hình ảnh của một mối tình sâu bền giữa một đôi trai gái. Chính điều này khiến những bài thơ công dân của bà đậm chất nhân bản, không biến thành lời hô khẩu hiệu suông ngay cả khi… bà hô khẩu hiệu:
… Xuyên suốt tháng năm dài trong tôi vẫn sáng
Vĩnh viễn sáng ngời qua hạnh phúc, đau thương
Là mùa Xuân năm bốn mươi hai – xuân ấy khác thường
Trong thành phố bốn bề phong tỏa
Cánh én nhỏ nhoi trên lồng ngực tôi buốt giá
Làm bằng miếng sắt tây… tôi tự gắn cho mình
Đây dấu hiệu riêng của tin tức tốt lành
Và có nghĩa “Em chờ thư anh đấy” …
…Có bao nhiêu lá thư đã ghi tên
Tên của tôi, đến với tôi từ bấy
Vì đâu lòng tôi luôn cảm thấy
Đến tận giờ chưa nhận được lá thư yêu?
Để lương tâm được chạm tới mọi điều
Tới cuộc sống bừng lên sau câu chữ
Tới sự thật chảy từng dòng tư lự
Như giữa trưa hè ghé miệng mạch nguồn trong
Ai đã không viết, không gửi đi lá thư tôi mỏi mòn trông?
Kẻ mang tên Hạnh phúc? Khổ đau? Hay Chiến Thắng?
Hay chính là người bạn tôi không tìm ra trong xa vắng
Mãi mãi tôi chẳng nhận ra người? …
(Cánh én trong vòng vây – 1945)*
Những vần thơ sau chiến tranh của Olga có cả tình yêu, cả nỗi buồn và những hoang mang. Một lần tôi được nghe các em học sinh một trường phổ thông ở Nga, khi học đến tác phẩm ba bài thơ về thời kỳ xây dựng thủy điện ở sông Đông, sông Volga, đã nhận xét: “Sao thế nhỉ? Rõ ràng là viết về lao động vĩ đại của con người, làm chủ thiên nhiên, mà sao đọc cứ thấy buồn…”. Nỗi buồn ấy là nỗi buồn “sau chiến tranh”, với những vết thương chưa lành, những mất mát vẫn còn đeo đuổi, với sự gồng mình lên để tiếp tục cuộc sống mới, cuộc sống hòa bình nhưng đôi khi còn xa lạ, khó quen với những con người vừa trải qua bom đạn, hy sinh. Điều này cũng là một cảm nhận của Olga, khi nhà thơ đi thực tế rất nhiều nơi, cùng sống và làm việc với nhân dân mình. Trong nhật ký từ tháng 5 đến tháng 10-1049, bà viết: “Cậu lái máy kéo Sukhov cứ hay than thở với bạn là thấy buồn bã trong lòng, đầu óc cũng làm sao ấy, rằng “không thể sống được, như đánh mất bản thân”… Sau này biết ra, hình như cậu ấy cũng có vấn đề gì đó trong cuộc sống, vợ chồng cự nhau suốt… Chị Zemskova thì hôm qua lại than: “Sau chiến tranh tôi thấy sống khó quá. Vì lão chồng. Đàn ông quen với chiến tranh, mất thói quen với nhà cửa gia đình rồi…”
Những vần thơ vì thế, đầy ắp nỗi niềm rất riêng tư, nỗi hoang mang lo lắng về tương lai:
Lại một mình đơn độc lên đường
Đường mong ước mà lắc lơ, bất trắc
Niềm phóng khoáng, nỗi âu lo cùng đốt tim bỏng rát
Đứng bậc cửa toa tàu, nỗi ớn lạnh rít qua tai
Dường như tôi đang tìm đến tuổi xuân ở cuối chặng đường dài
Nơi nào nhỉ? Bao giờ? Liệu tôi có nhận ra người khi gặp mặt?
Buổi chiều ấy có xanh biếc lên khao khát?
Ngôi sao mai có hiền dịu như xưa?
(Lại một mình đơn độc lên đường – 1952)*
Hoặc thấm thía “nỗi buồn chiến tranh”, để rồi sống khác đi với cuộc đời mới, những quan tâm mới:
Nơi cửa sông, khắp vùng đất cháy
thoảng mùi hương hoa ngải đắng ngắt lòng
Có mùi hương nào xa vắng thế này không
như điềm báo tai ương,
và chỉ còn lại tình yêu bên tôi như người lính canh áp giải…
…Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng
ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời
Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn
đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi
Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải
mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi
Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời
trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước?
(Những lá thư viết trên đường – 1952, 1960)*
Hay thậm chí, cả những phẫn nộ của một công dân trung thực, lên tiếng trước sự chuyên quyền của thời Stalin:
Cả ngày trong cuộc họp tôi ngồi
Rồi biểu quyết, rồi nói điều giả dối
Lời hổ thẹn sao chưa làm tôi chết nổi?
Nỗi chán chường không khiến bạc đầu thêm?
…
Ai đó được tung hô sau khốc liệt chiến trường
Số còn lại đã nằm đây lặng thầm mãi mãi
Máu đổ xuống đất lành không mưu toan lời lãi
Có hay đâu để chuộc mọi lỗi lầm
Chưa bao giờ phạm phải với lương tâm!
(Cả ngày trong cuộc họp tôi ngồi… - 1948, 1949)
… Rõ ràng, các tác phẩm của Olga Berggoltz, dù trong chiến tranh hay khi cuộc sống đã trở về bình lặng, vẫn mãi là “hồn Thời đại – qua trái tim này truyền tiếng nói đến hư không” như bà đã viết!
Luôn luôn là một công dân yêu nước, bà vượt qua nỗi niềm riêng để lớn lên cùng đất nước, đồng hành cùng dân tộc. Chính vì thế, tôi những muốn dùng hình ảnh “ngôi sao ban ngày” trong tác phẩm văn xuôi tự sự trữ tình của bà “Những ngôi sao ban ngày” (1959) để nói về bà, nữ sĩ xinh đẹp của nước Nga. Bà như ngôi sao xuất hiện dưới đáy giếng, vượt mọi khổ ải, để bay lên.
Thụy Anh, 22-10-2009
Chú thích:
(*): Những vần thơ được trích trong bài do Thụy Anh dịch
Tư liệu tham khảo:
1. Olga Berggoltz, ba tập. Leningrad; NXB “Văn học nghệ thuật”, 1988
2. Những ngôi sao ban ngày. Olga Berggoltz. NXB “Nhà văn Xô Viết”, 1959
3. Tiếng nói Leningrad. Olga Berggoltz. NXB Lenizdat, 1946
4. Nhớ Olga Berggoltz. Nhiều tác giả. NXB Lenizdat, 1979
5. Gặp gỡ - thơ, hồi ký, ghi chép của Olga Berggoltz. NXB Sách Nga, 2000
Bài đã đăng trên Văn Nghệ quân đội số đầu tháng 11-2009
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."