(Viết trong blog, copy vào đây cho bõ công :p)
Ngô đồng xuất hiện trong thơ văn Trung Quốc từ rất sớm. Kinh thi:
鳳凰鳴矣,于彼高岡。
梧桐生矣,于彼朝陽。
菶菶萋萋,雝雝喈喈。
Phượng hoàng minh hĩ, Vu bỉ cao cương.
Ngô đồng sinh hĩ, Vu bỉ triêu dương.
Bổng bổng thê thê, Ung ung dê dê.
(Chim phượng hoàng hót, Tiếng trên ngọn núi cao.
Cây ngô đồng mọc, Trong ánh nắng sớm.
Tươi tốt xanh xanh, Hài hoà vui vẻ.)
Trong sách Trang Tử, thiên Thu thuỷ, đoạn nói với Huệ Tử cũng có:
南方有鳥,其名為鵷鶵,子知之乎?夫鵷鶵,發於南海而飛於北海,非梧桐不止,非練實不食,非醴泉不飲。於是鴟得腐鼠,鵷鶵過之,仰而視之曰「嚇」!今子欲以子之梁國而嚇我邪?
Nam phương hữu điểu, kỳ danh vi uyên sồ, tử tri chi hồ? Phù uyên sồ, phát ư nam hải nhi phi ư bắc hải, phi ngô đồng bất chỉ, phi luyện thực bất thực, phi lễ tuyền bất ẩm. Ư thị si đắc hủ thử, uyên sồ quá chi, ngưỡng nhi thị chi viết "hách"! Kim tử dục dĩ tử chi Lương quốc nhi hách ngã tà?
(Phương nam có loài chim, tên gọi phượng hoàng (uyên sồ là một tên gọi của phượng hoàng), ông (tức Huệ Tử) có biết không? Loài chim này, phát từ Nam Hải, bay lên Bắc Hải, không phải ngô đồng không đậu, không phải hột luyện không ăn, không phải suối nguồn không uống. Vậy mà có loài quạ bắt được con chuột thối, gặp khi phượng hoàng bay qua, ngửa cổ lên kêu để doạ (vì sợ tranh ăn)! Nay ông vì sợ tôi lấy mất nước Lương mà kêu lên để doạ tôi sao?)
Mang ngô đồng sánh với phượng hoàng, có thể thấy người xưa coi trọng nó thế nào! Trong tích Bá Nha-Tử Kỳ có nói, Bá Nha hỏi Tử Kỳ về xuất xứ của cây dao cầm, Tử Kỳ đáp: "Vua Phục Hy thấy 5 ngôi sao rơi xuống cây ngô đồng, rồi có chim phượng hoàng tới đậu, biết là cây quý, nên lấy gỗ làm thành loại nhạc cụ, bắt chước nhạc khí cung Dao Trì, gọi là dao cầm. Thân cây được chặt làm 3 đoạn, đoạn ngọn tiếng trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa là dùng được, đem ngâm giữa dòng nước chảy 72 ngày rồi phơi trong bóng mát đến khô mới có thể làm được..." Từ đó hai người kết làm tri kỷ.
"Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ tận tri thu" (Một chiếc lá ngô đồng rụng, Cả thiên hạ đều biết là mùa thu). Ngô đồng như là một thứ "thuốc thử", trong cổ thi đa phần đều gắn với mùa thu, xuất hiện nhiều vô kể. Lý Bạch có: "Nhân yên hàn quất tụ, Thu sắc lão ngô đồng" (Khói nhà ai làm lạnh quất và bưởi, Màu thu làm già cây ngô đồng - Thu đăng Tuyên Thành Tạ Diễu bắc lâu). Bạch Cư Dị: "Xuân phong đào lý hoa khai nhật, Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì" (Ngày gió xuân đào mận nở, lúc mưa thu lá ngô đồng rụng - Trường hận ca). Án Thù: "Kim phong tế tế, Diệp diệp ngô đồng truỵ" (Gió vàng vi vu, Từng chiếc lá ngô đồng rụng - Thanh bình lạc).
Ngô đồng trong Tống từ còn hay được dùng để chỉ sự tịch mịch, cô quạnh. Lý hậu chủ: "Tịch mịch ngô đồng thâm viện toả thanh thâu" (Ngô đồng tịch mịch, viện sâu khoá xuân xanh - Tương kiến hoan). Lý Thanh Chiếu: "Hàn nhật tiêu tiêu thượng toả song, Ngô đồng ưng hận dạ lai sương" (Ngày lạnh tiêu điều toả xuống song, Ngô đồng sao hận những đêm sương - Giá cô thiên), "Ngô đồng lạc, hựu hoàn thu sắc, hựu hoàn tịch mịch" (Lá ngô đồng rụng, lại sắc thu, lại cô quạnh - Ức Tần Nga).
梧桐樹,
三更雨,
不道離情正苦。
一葉葉,
一聲聲,
空階滴到明。
Ngô đồng thụ,
Tam canh vũ,
Bất đạo ly tình chính khổ.
Nhất diệp diệp,
Nhất thanh thanh,
Không giai chích đáo minh.
Cây ngô đồng,
Mưa lúc canh ba,
Đâu biết chính lúc đau khổ vì ly biệt.
Từng chiếc lá rụng,
Từng giọt mưa rơi,
Bền thềm không cho tới sáng.
(Canh lậu tử - Ôn Đình Quân)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.