.
Người xưa - Xuân xưa - Thơ xưa (Phần 2)
II
Trong bảy năm cầm quyền, vừa lo chấn chỉnh nội trị, vừa lo chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh, nhà Hồ chưa đủ thời gian để đạt được những thành tựu về văn hoá đáng kể, ngoài cuộc thi lấy 20 Thái học sinh năm Canh Thìn (1400), trong đó có những người đặc biệt xuất sắc như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn..., và cuộc thi lấy 170 cử nhân năm Ất Dậu (1405).
Một người đỗ Thái học sinh năm 1400 là Lê Cảnh Tuân (?-1416). Tháng mười năm Đinh Hợi (1407), ông gửi cho bạn cũ là Bùi Bá Kỳ đang làm quan với giặc Minh, bài "Vạn ngôn thư" khuyên Kỳ chống Minh. Thư lọt vào tay giặc, ông phải bỏ trốn. Sau đó, ông cải trang đến dạy học ở Thăng Long để có cơ hội mưu việc phục quốc. Nhưng đến năm Tân Mão (1411), ông bị bắt đưa về Yên kinh. Vua Minh hỏi sao dám xui Bá Kỳ làm phản, ông đáp rằng: "Người nước Nam mong nước Nam còn, hỏi mà làm gì?". Ông liền bị tống vào ngục Kim Lăng và mất ở đó. Cũng như Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân không được coi là nhà thơ đời Hồ. Hiện nay, ông còn để lại 12 bài thơ, trong đó có một số bài làm ở Trung Quốc. Xin tạm dịch hai bài ngũ ngôn tuyệt cú làm vào dịp tết nguyên đán lúc xa quê.
Bài thứ nhất: "Nguyên đán", TKĐ dịch:
"Vẫn nằm dài quán trọ,
Xuân năm ngoái lại về.
Ngày về, nào biết được,
Mai hẳn cỗi vườn quê." (1)
Bài thứ hai: "Ngày nguyên đán ở trạm trên sông", TKĐ dịch:
"Cảnh đẹp gặp ngày tết,
Luống thương thân không nhà.
Nỗi buồn vơi chút ít,
Xuân tươi dõi mắt già." (2)
Dựng lên lâu đài thi ca Việt Nam, đặc biệt thơ quốc âm đầu thế kỷ XV, dưới triều Lê, là Nguyễn Trãi (1380-1442). Tôi xin không nói gì thêm về đại thụ Ức Trai đã toả bóng tươi xanh từ sáu thế kỷ nay, mà xin chép lại đây hai bài thơ xuân cùng đề của Cụ.
Bài 1 - Mộ xuân tức sự (Cuối xuân tức cảnh)
Bản dịch trong"Nguyễn Trãi toàn tập":
"Trọn ngày thong thả khép phòng văn,
Khách tục bên ngoài chẳng bén chân.
Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn,
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân." (3)
Bài 2 – Cuối xuân (Thơ quốc âm).
"Tính từ gặp tiết lương thần,
Thiếu một hai mà no chín tuần.
Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi,
Ốc dương hoà lại ngõ dừng chân.
Vườn hoa khóc tiếc mặt Phi tử,
Trì cỏ tươi nhưng lòng tiểu nhân.
Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,
Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân."
Tường cũng nên chép thêm mấy chú thích về bài thơ quốc âm: Lương thần là thời tiết tốt, tiết xuân; No là đủ; Tuần có mười ngày; ốc (?) dương hoà, hiểu là khí dương hoà; ngõ, tức ngõ hầu, có thể; Phi tử, tức Dương quý phi, câu này lấy từ tích Đường Minh hoàng thấy hoa phù dung nhớ Dương quý phi mà khóc; Trì cỏ là cỏ bên ao, sách "Luận ngữ" viết: đức kẻ nhỏ nhen cũng như cỏ; Đóng là đánh, đanh chuông phải dùng chày lớn mà nện giống như đóng.
Sau Nguyễn Trãi, Lê Thánh tôn (1442-1497), Nguyên Suý và các văn thần hội viên Hội Tao đàn, đã có những đóng góp tích cực cho thơ Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV cả thơ chữ Hán và thơ quốc âm. Riêng thơ Nôm (quốc âm) người đời sau đã sưu tập thành "Lê Thánh tôn thi tập" và "Hồng Đức quốc âm thi tập". Xin giới thiệu bài "Vịnh cảnh mùa xuân" trong tập thơ "Hồng đức quốc âm":
"Lật lật bình phong mở mấy lần,
Khắp hoà chốn chốn một trời xuân.
Hiu hiu gió thổi hương lồng áo,
Phơi phới mưa sa ngọc đượm chăn.
Liễu vẽ mày xanh oanh chấp chới,
Mai tô má phấn bướm xun xoăn.
Đường chen xe ngựa tai vang nhạc,
Nào chốn nào là chẳng cõi nhân."
Ta thấy thơ quốc âm ở đây đã dễ hiểu hơn thơ Nguyễn Trãi. Nhưng thơ vịnh xuân (và thơ nói chung) của nhóm Lê Thánh tôn chủ yếu là ngợi ca đời thái bình thịnh trị, vua giỏi tôi hiền, có thể nói là một dòng thơ riêng. Trước, trong, và nhất là ở thế kỷ sau đó, thơ xuân của nhiều tác giả, đều là thơ nói về tâm trạng riêng tư của mỗi người.
Đàm Văn Lễ (1452-1505) thuở nhỏ nổi tiếng thần đồng, đỗ Giải nguyên rồi đỗ Tiến sĩ năm 18 tuổi, làm quan đến Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Khi vua Hiến tôn ốm nặng, Kính phi đem vàng đến hối lộ để lập Uy mục là con nuôi của mình. Ông không nhận, và cùng với Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật theo di chiếu, lập Túc tôn làm vua. Túc tôn chết, Uy mục lên ngôi, liền biếm Đàm và Nguyễn vào Quảng nam. Nhưng khi hai ông đi đến sông Yên lạc (tức sông Lam, đoạn qua Da Lách) thì sai người đuổi theo bắt phải tự tử. Hai ông đọc một bài thơ quốc âm rồi nhảy xuống sông... Bài thơ Nôm tuyệt mệnh ấy không còn. Nhưng Đàm Văn Lễ còn để lại được 24 bài thơ chữ Hán, trong đó có bài "Ba mươi tết ngẫu nhiên làm thơ" tỏ nỗi "chán ghét tình đời", thực ra là chán ghét cái chế độ, cái xã hội nhà Lê đã bước vào thời kỳ suy tàn. Bài thơ được viết trước khi bị hại không lâu. TKĐ tạm dịch:
"Năm mới vừa kề, cũ đã ruồng,
Thói đời chi lạ, nghĩ mà thương.
Tháng, năm mà cũng yêu cũng ghét,
Phụ bạc, đời nay ấy chuyện thường." (4)
Nguyễn Thiên Tích đỗ khoa Hoành từ năm 1431, đi sứ sang Trung Quốc năm 1434, khi về làm Thị ngự sử. Gặp việc Lê Trung Xích sai quân nhân về làm việc nhà, ông tâu lên vua thì Tri tư tụng Trịnh Khắc Phục giải cứu cho Xích. Ông lại xin xét tội phục bao che kẻ phạm pháp. Vua Thái tôn không nghe, ông liền xin từ chức. Vua chưa y, ông cũng không chịu đến làm việc nữa. Sau vua xét ông là người trung thực bèn triệu ra làm chức cũ và cử đi sứ lần thứ hai. Vua thường khen ông ngay thẳng như Vương Khuê, Nguỵ Trưng đời Đường, thăng ông lên Thượng thư kiêm Tế tửu Quốc tử giám. Ông còn để lại "Tiêu sơn thi tập". Bài "Làm cuối mùa xuân ở Diễn châu" dưới đây rút trong tập thơ ấy. TKĐ tạm dịch:
"Nơi từ bóng rợp tiếng đa đa,
Nhìn áng mây trôi chẳng thấy nhà.
Thân náu ba năm, đầu thúa bạc,
Đường dài muôn dặm bể khơi xa.
Lòng dù bùn dính hoen tơ liễu,
Mình cũng dơ lây bẩn cánh hoa.
Cái luỵ công danh lầm buổi trẻ,
Trồng dưa nghĩ chuyện thẹn cho ta." (5)
"Trồng dưa" ở đây mượn tích truyện Thiệu Bình đời Tần được phong Đông lăng hầu, sau mất chức, về trồng dưa, dưa ngon có tiếng, để nói tâm trạng chán ngán, giận mình không dám bỏ quan về.
Cùng sống gần đồng thời với Nguyễn Thiên Tích, Đàm Văn Lễ, có Nguyễn Bảo, đỗ Tiến sĩ năm 1472 giữ chức Tả tư giảng, dạy Thái tử, sau thăng đến Thượng thư. Ông có "Châu khê thi tập" gồm 8 quyển, do học trò ông là Trần Củng Uyên sưu tập, biên soạn. Ba bài thơ xuân "Cuối năm tỏ nỗi lòng", "Tức sự ngày xuân", "Chiều xuân ở thôn Tùng Mai" tỏ ra tác giả gần gũi với cuộc sống thôn dã, và mang một tâm trạng u buồn. Dưới đây là bài "Tức sự ngày xuân", TKĐ tạm dịch:
"Giữa đồng, chùa vắng mãi lân la,
Xuân đến, buồn càng bám riết ta.
Tươi héo cỏ lan thềm phía trước,
Nhạt nồng khói toả rặng cây xa.
Đất không được tốt, khôn gieo giống,
Trời cứ ôn hoà, muốn trỗ hoa.
Ôm sách trên giường nghe tiếng cốc,
Nghề nông muốn đến học ông già." (6)
Một nhà thơ phụ nữ nổi tiếng thế kỷ XV-XVI là Ngô Chi Lan, vợ Phù Thúc Hoành (Theo "Trích diễm thi tập" và "Hoàng Việt thi lục" thì vợ Phù Thúc Hoành là Nguyễn Hạ Huệ, các sách khác chép là Ngô Chi Lan). Bà có văn tài, làm nhiều thơ ca, từ khúc, được vua Lê Thánh tôn vời vào cung dạy các cung nữ, và gọi là Phù gia nữ học sĩ. Bà có "Mai trang tập" và bốn bài thơ vịnh bốn mùa (Tứ thời khúc), Dưới đây là bài "Mùa xuân" do Trúc khê Ngô Văn Triệu dịch:
Hun người nắng mới như say,
Lâu đài ấm áp nhuộm đầy dương quang.
Cách rèm, liễu biếc, oanh vàng,
Quang hiên cái bướm mơ màng trong hoa.
Trước thềm ánh nắng dài ra,
Mồ hôi dâm dấp xiêm đà đượm xanh.
Sầu xuân nặng trĩu bên mình,
Ngây thơ đứa nhỏ lanh chanh cợt cười." (7)
Chế độ nhà Lê khủng hoảng trầm trọng đẫn tới mất ngôi về tay nhà Mạc. Nhưng rồi dựa vào họ Trịnh, nhà Lê vẫn tồn tại về danh nghĩa, và kéo dài tới hơn hai thế kỷ nữa.
Nhà Mạc đã mở 22 khoa thi, có 485 người đỗ, trong đó có 13 trạng nguyên. Nhiều người thi đỗ dưới triều Mạc như Bảng nhãn Bùi Vịnh, Tiến sĩ Hà Nhiệm Đại, các Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải..., hoặc làm quan triều Mạc như Tiến sĩ Lê Quang Bí... đều là nhà thơ có tiếng tăm... Để kết thúc phần này, chỉ xin giới thiệu một bài thơ của cụ Trạng Trình.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là người có danh vọng và uy tín lớn, sống gần trọn thế kỷ XVI. Ông học rộng, tài cao, nhưng mãi đến 45 tuổi mới thi đỗ Trạng nguyên khoa ất mùi, năm Đại chính thứ 6 đời Mạc Đăng Doanh (1535). Ông làm quan tám năm rồi về ở ẩn ở am Bạch Vân tại quê nhà, mở trường dạy học bên sông Tuyết giang (do đó có hiệu Bạch Vân tiên sinh, Tuyết giang phu tử). Ông được vua Mạc tôn làm quốc sư, phong đến tước Trình quốc công, và chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều kính trọng. Ông để lại hai thi phẩm "Bạch vân thi tập" (chữ Hán) và [/i]"Bạch vân quốc ngữ thi tập".[/i]Dưới đây là bài thơ "Thôi làm quan, về nhà", làm vào mùa xuân năm 1565 do cụ Ngô Lập Chi dịch:
"Tuổi trời đã ngoại bảy mươi tư,
Mừng được an nhàn chốn ẩn cư.
Năm mới, cảnh vui đầy vũ trụ,
Nhà nghèo nếp cũ sẵn thi thư.
Xuân về ấm áp hoa, tre tốt,
Nhà trống thênh thang cửa, ghế thưa.
Ai dở ai hay thời mặc kệ,
Già này ngông dại luống mần ngơ." (8)
_________
(1) Nguyên văn: Nguyên nhật
Lữ quán khách nhưng tại,
Khứ niên xuân phục lai.
Qui kỳ hà nhật thị,
Lão tận cố viên mai.
(2) Nguyên văn: Nguyên nhật giang dịch
Hảo cảnh phùng nguyên nhật,
Vô gia mẫn thử nhân.
Khách sầu hồn giảm khứ,
Lão nhãn khán thanh xuân.
(3) Nguyên văn: Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đồ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
(4) Nguyên văn: Trừ tịch ngẫu thành
Tài cận tân niên yếm cựu niên,
Vô đoan thế thái tận kham liên.
Đẳng nhàn tuế nguyệt do tăng ái,
Mạc quái nhân sinh hữu khí quyên.
(5) Nguyên văn: Mộ xuân Diễn châu tác
Giá cô đề xứ lục âm đa,
Vọng đoạn hành vân bất kiến gia.
Tùng cúc tam niên sương mấn cải,
Hải môn vạn lý khách trình xa.
Hoạn tình dĩ tự triêm nê nhứ,
Thân sự hồn như lạc phẩn hoa.
Tảo tuế ngộ vi danh sở luỵ,
Đông môn tu sát Thiệu Bình qua.
(6) Nguyên văn: Xuân nhật tức sự
Dã tự tiêu điều ký sổ duyên,
Nhập xuân phong cảnh khước du nhiên.
Vinh khô tuỳ ý giai tiền thảo,
Nồng đạm đa tình thụ ngoại yên.
Bán tính bán phì nan chủng địa,
Bất hàn bất noãn dục hoa thiên.
Ủng thư sàng thượng văn đề quyết,
Dục phỏng thôn ông học dưỡng điền.
(7) Nguyên văn: Xuân từ
Vô tình huân nhân thiên tự tuý,
Diễm dương lâu đài phù noãn khí.
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
NHiễu hạm hoa tu xuyên diệp xí.
Giai tiền hồng tuyến nhật thiêm trường,
Phấn hãn vi vi tẩm lục thường.
Tiểu tử bất trù xuân tứ khổ,
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.
(8) Nguyên văn: Trí sĩ
Hành niên thất thập tứ niên dư,
Hỷ đắc đầu nhàn phóng cựu cư.
Tuế thủ hân quan tân vũ trụ,
Gia bần duy phú cựu thi thư.
Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
Tĩnh kỷ, minh song nhất thất hư.
Thuỳ thị, thuỳ phi hưu thuyết trước,
Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ.
(còn tiếp)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook